Chương 90: Hồi sáu: đường dây màu trắng

Mê Tông Chi Quốc

Đăng vào: 12 tháng trước

.



Tư Mã Khôi nhỏ giọng hỏi Thắng Hương Lân: “Người nhấc máy có phải là giáo sư Nông địa cầu không?” – Thắng Hương Lân run lập cập, rồi khẽ gật đầu. Tư Mã Khôi thấy đúng như mình phán đoán, bèn hỏi: “Người đó nói những gì vậy?”, Thắng Hương Lân đáp: “Chỉ nói tên, còn mấy lời sau… tôi không dám nghe tiếp”. Tư Mã Khôi thắc mắc: “Cô có chắc chắn không?” Thắng Hương Lân nói: “Tôi không bao giờ nghe lầm giọng của giáo sư.”



Tư Mã Khôi tin vào năng lực phán đoán của Thắng Hương Lân, chắc cô không thể nghe lầm, cũng chính vì trước lúc chết giáo sư đã dặn dò mọi người: “Sau khi máy thông, bất luận đối phương nói gì, cũng tuyệt đối không được tin” – cho nên kẻ bên kia đầu dây điện thoại màu trắng dù có là ma, thì cũng tuyệt đối không phải hồn ma của giáo sư Nông địa cầu. Đây mới là điều khiến Thăng Hương Lân cảm thấy khiếp sợ nhất.



Tư Mã Khôi cầm điện thoại quay thêm mấy lần nữa, định tự mình nghe lại một lần, nhưng điện thoại chỉ reo vài tiếng rồi ngắt, không có ai bắt máy, anh đành bỏ ống nghe xuống. Trước đây, anh từng tiếp xúc với sóng điện vong hồn đầy thần bí, nhưng đó chỉ là những mẩu ký ức còn tồn lưu trong sóng từ trường, không ngừng lặp đi lặp lại một cách vô thức. Còn bây giờ, chiếc điện thoại thạch từ Aφ53 đặt trong khoang bảo mật của trạm thám trắc Liên Xô lại hoàn toàn không giống với sóng điện u linh như thể băng cassette kia. Đầu tiên, mọi người không hề cảm nhận thấy từ trường tồn tại ở khu vực gần đây, kế đến địa điểm mà giáo sư Tống Tuyển Nông qua đời là ở dòng sông ngầm, cách cánh rừng rậm than đá ngoài hai cây số, trong khi đường dây điện thoại chỉ có độ dài tối đa là hai mươi ngàn mét, nên căn bản không thể vươn đến tận đây.



Thắng Hương Lân định thần, hỏi Tư Mã Khôi: “Hay là tên gián điệp theo dõi chúng ta lại giở trò quỷ gì nhỉ?”



Đầu óc Tư Mã Khôi chuyển động cực nhanh, anh cảm thấy khả năng này không thể tồn tại, bèn nói: “Tuy nước ta cũng nắm được một số tài liệu và tình hình kết cấu nội bộ của trạm thám trắc Liên Xô, nhưng trong thời gian Cách mạng Văn hóa, nó đã bị tiêu hủy, thất lạc rất nghiêm trọng. Tin tình báo giáo sư Nông địa cầu có được vô cùng ít ỏi, thêm nữa ông cũng chưa bao giờ thực sự thâm nhập kính viễn vọng Lopnor, bởi thế những gì ông được nghe kể vẫn có thể có một chút sai lệch so với sự thật, không tận mắt nhìn thì không thể khẳng định chính xác được. Bây giờ suy ngẫm kỹ lại mấy lời giáo sư căn dặn chúng ta trước lúc lâm chung, trong đó ông tiết lộ tình hình thực tế có lẽ là: tìm thấy chiếc điện thoại thạch từ Aφ53 trong rừng rậm than đá, thì có thể lần theo đường dây tìm được trạm thám trắc trung tâm.



Nhưng nếu có nối thông được bất kỳ chiếc máy điện thoại nào, cũng tuyệt đối không được tin nội dung đối phương nói. Giáo sư có thể biết trước một vài tin tình báo về phương diện này, chứng tỏ ngay từ lúc đoàn chuyên gia Liên Xô tháo lui khỏi kính viễn vọng Lopnor, tuyến đường dây màu trắng đã xuất hiện hiện tượng bất thường gì đó; còn rốt cục nó đã xảy ra những biến cố gì trong trạm thám trắc trung tâm, công dụng thực sự của tuyến đường dây điện thoại màu trắng trong khoang bảo mật như là gì, và cả việc vì sao đoàn chuyên gia Liên Xô lại từ bỏ công cuộc tìm kiếm cứu hộ đội khảo sát bị mất tích, mà vội vàng rút khỏi kính viễn vọng Lopnor, thì những điều này chúng ta đều được biết rất ít. Bây giờ chỉ có thể xác định một điểm, đó là chiếc điện thoại thạch từ Aφ53 nối đường dây màu trắng này có chút kì quái, trừ điều đó ra, thì không còn lời giải thích nào hợp lý hơn.”



Thắng Hương Lân vẫn cảm thấy khó lòng tin được: “Anh cho rằng trong trạm thám trắc dưới lòng đất có ma sao?”



Tư Mã Khôi nói: “Thực ra trên đời này, mọi sự vật sự việc chỉ tồn tại một cách tương đối. Thời cổ đại, người ta tin rằng nguyệt thực là do chó trên trời gặm mất mặt trăng, nhưng người hiện đại chúng ta thì nhận định đó là sự chuyển động của các hành tinh, có lẽ sau này người ta còn có cách giải thích khoa học hơn về hiện tượng này. Nói tóm lại, ngôi nhà dẫu bình thường mà bỏ hoang lâu ngày, còn khó tránh khỏi xảy ra một vài hiện tượng kì quái, huống hồ trạm thám trắc của Liên Xô lại nằm ở khu vực sâu hàng vạn mét dưới lòng đất, bởi thế tôi có cảm giác không lành với cái hộp xi măng to lù lù kia.”



Thắng Hương Lân gật đầu hỏi: “Vậy bây giờ chúng ta nên làm thế nào?”



Tư Mã Khôi đáp: “Làm thế nào à? Nhà triết học vĩ đại người Nga Nikolai Gavrilovic Chemyshevsky(1)từng viết một tác phẩm bất hủ khi ở trong ngục, có tên là “Làm gì?(2)”. Tôi thấy hai từ này đúng là sự khái quát tinh túy nhất đối với cuộc đời và số mệnh của con người, bởi vì chúng ta từng giây từng phút đều luôn tự mình hỏi mình câu hỏi đó. Thực ra đáp án duy nhất chính là “Hãy tin vào thứ nên tin, nếu không còn biết phải làm gì”



(1) Nikolai Gavrilovic Chemyshevsky: là nhà dân chủ cách mạng Nga, nhà triết học, nhà phê bình văn học, lãnh tụ phong trao dân chủ cách mạng Nga những năm 60 thế kỉ XIX, một trong những tiền bối xuất sắc của phái dân chủ xã hội Nga.



(2) Nguyên văn: Stodelat



Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi vẫn vững vàng như lúc đầu, tâm lý cô cũng dần trấn tĩnh trở lại: “Nhưng thứ nên tin bây giờ là thứ gì? Chẳng lẽ lại tin rằng ở đây có ma sao?”



Tư Mã Khôi nói: “Tôi không biết trong trạm thám trắc trung tâm có ma hay không, nhưng tôi tin tưởng giáo sư Tống Tuyển Nông từng sống bên cạnh chúng ta. Bởi vậy, trước tiên chúng ta phải tìm cách xác minh rõ đường dây màu trắng này rốt cục thông đến đâu. Dù sao thì ông đây cũng mắc hội chứng địa áp rồi, lại còn khẩu súng trường đã lên quy lát sẵn sàng, sống chết gì cũng chỉ một mạng, cho dù ở đây có ma thật chăng nữa thì cũng không có gì đáng sợ cả.”



Kỳ thực Tư Mã Khôi chỉ nói miệng vậy thôi, chứ tim cũng đang đánh trống thình thịch: “Mong rằng đường dây màu trắng không nối xuống giếng khoan dưới trạm thám trắc. Có câu “thiên huyền địa hoàng”, huyền là cao, hoàng là sâu, địa hoàng chính là chỉ hoàng tuyền dưới lòng đất. Nghe nói sau khi con người chết đi đều phải về nơi ấy, vương triều Chăm Pa gọi đó là vương quốc của người chết, nó rất giống với cái động khổng lồ nằm giữa quyển manti và lớp vỏ Trái Đất kia. Nếu quả thực người Liên Xô đủ trình độ nối được đường đây điện thoại xuống động không đáy đó, thì đúng là hoàn toàn vượt ra ngoài tầm nhận thức của chúng ta.”




Sau khi bàn bạc kỹ, nhờ ánh sáng đèn quặng, hai người lần theo đường dây trong khoang bảo mật. Thật bất ngờ, họ lại tìm thấy một vài tấm bản đồ và ảnh chụp chưa kịp cháy hết nằm khuất trong góc hẹp, thậm chí còn có một tập bảng kê điện báo dày cộp, bên trên đóng dấu tuyệt mật, tuy phần lớn đã bị cháy nham nhở, nhưng một số chỗ vẫn còn đọc được.



Mắt Tư Mã Khôi sáng bừng lên, anh lập tức nhặt lên giở từng trang, rồi nói với Thắng Hương Lân: “Khả năng đây là thu hoạch lớn nhất từ trước đến nay của chúng ta, tuy tôi xem không hiểu chữ nào, nhưng tệp bảng kê điện báo này chắc chắn vô cùng quan trọng, không ngờ bọn mũi lõ cũng có điểm sơ sót.”



Thắng Hương Lân nói: “Không phải họ sơ suất đâu, những bức điện văn này đều là điện mật được mã hóa, nếu không có bản giải mã thì cầm nó trong tay cũng chẳng khác gì nắm giấy lộn.”



Tư Mã Khôi vẫn lạc quan: “Tôi cho rằng thời gian chính là thiết bị giải mã tốt nhất. Bộ mã vạch điện mật quân dụng, cùng lắm cũng chỉ vài năm là phải thay một lần, thời kỳ chiến tranh lạnh tần suất sửa đổi còn nhanh hơn, bởi vì nó chỉ cần bị lộ ra ngoài thì cũng đồng nghĩa với việc không có gì đáng gọi là bí mật nữa cả. Mật mã thông tin điện báo của Liên Xô vào những năm 50, bây giờ chỉ là đồ bỏ, không thể sử dụng được nữa. Những nội dung quân sự cơ mật cao độ trong thời điểm đó, đến hiện nay lại trở thành kiến thức cơ bản mà bộ đội thông tin nhiều quốc gia bắt buộc phải nắm vững. Bởi vì mô thức thiết kế mật mã thông tin của quân đội Xô Viết rất tiên tiến và hoàn thiện, nên nhiều thông tin điện báo mà quân đội của các quốc gia như Việt Nam, Miến Điện sử dụng, đến tận ngày nay, vẫn lấy thông tin bảo mật của lực lượng vũ trang Liên Xô những năm năm sáu mươi làm cơ sở. Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà chắc chắn cũng đã học qua, đợi chút nữa cho cậu ta xem, nếu điện văn không sử dụng phương thức bảo mật kép đặc biệt nào đó, biết đâu chúng ta sẽ phát hiện được một số tin tình báo quan trọng tò nó.”



Lúc này Thắng Hương Lân đã sắp xếp lại số tài liệu và bản đồ còn sót lại thành một tập ngay ngăn. Do nội dung phức tạp, nên trong khoảng thời gian gấp gáp, cô không thể đọc và phân tích kỹ được. Trong lúc cô chuân bị nhét tất cả vào ba lô mang đi, thì có một tập tài liệu khiến cô lập tức cảnh giác, nội dung tài liệu thể hiện rõ, trong kính viễn vọng Lopnor, tổng cộng hai lần xảy ra biến cố trọng đại:



Biến cố thứ nhất là, toàn bộ hai mươi hai thành viên của đội khảo sát liên hợp Liên Trung đều bị mất tích. Biến cố thứ hai là khi tiến hành kiểm nghiệm hệ thống điện thoại thạch từ Aφ53 lắp đặt trong rừng rậm than đá, có một viên cố vấn người Liên Xô và ba nhân viên người Trung Quốc đã gặp nạn, chỉ một người duy nhất may mắn sống sót sau khi được cứu chữa.



Tư Mã Khôi nói: “Tôi cho rằng mấy thông tin đó không có gì đáng gọi là cơ mật cả, chuyện đội khảo sát bị mất tích chúng ta đã biết từ trước, còn rừng rậm than đá kết cấu rất phức tạp, khu vực sụt lở khá nhiều, nếu có xuất hiện một vài sự cố thì cũng là điều khó tránh.”



Thắng Hương Lân nói: “Nhưng không đơn giản như anh nghĩ đâu…”, cô chỉ tay vào một đoạn ghi chép rồi nói: “Kẻ may mắn sống sót trong rừng rậm than đá chính là gã kỹ sư vật lý thăm dò Điền Khắc Cường”.



Tim Tư Mã Khôi run lên từng chập: “Thì ra ngay từ giữa những năm 50, gã Điền Khắc Cường này đã trà trộn vào đây với thân phận nhân viên kỹ thuật vật lý thăm dò, tham gia kế hoạch thám trắc kính viễn vọng Lopnor.”



Thắng Hương Lân cảm thấy tập tài liệu này dường như đã tiết lộ một tình huống vô cùng quan trọng, nhưng tổng thể sự việc lại quá ly kỳ khó hiểu, nên nhất thời cô khó lòng lý giải, đành phải cẩn thận tất cả đám tài liệu và giấy tờ còn sót lại này vào ba lô.



Hai người tiếp tục xem xét khoang bảo mật, phát hiện đường dây màu trắng trong bức tường được nối lên tầng thượng của trạm thám trắc trung tâm, điều này khiến hai người có chút bất ngờ. Tầng thượng là kho chứa đồ và phòng cung ứng điện cao thế cho hệ thống dưới lòng đất, còn lên trên nữa chính là động đạo bị phá sụp. Mọi đường dây điện và đường dây điện thoại liên hệ với thế giới bên ngoài đều cắt đứt tại đây. Vậy thì chiếc điện thoại thạch từ Aφ53 có đường dây màu trắng rốt cục nối thông đến khu vực nào?



Thắng Hương Lân ngẫm nghĩ một lát, đoạn nói với Tư Mã Khôi: “Vấn đề khả năng nằm ở độ cao của tòa kiến trúc xi măng khép kín này. Kết cấu ba tầng thượng – trung – hạ ở đây rất không đồng đều, khu vực tầng giữa có cánh cửa sắt thông với cánh rừng rậm than đá, còn hồ chứa nước và cầu trục treo ở tầng hầm lại chìm sâu trong hố quặng.



Nếu từ bên ngoài quan sát độ cao trạm thám trắc dưới lòng đất, bằng thiết bị quan trắc khoảng cách, thì phần lộ thiên khỏi hố than cao khoảng 23 mét, nhưng không gian thực tế bên trong của tầng giữa và tầng thượng, kể cả độ dày của dầm hộp xi măng cộng lại cũng không đến hai phần ba độ cao này”.



Tư Mã Khôi lập tức hiểu ngay suy đoán của Thắng Hương Lân: “Ý cô là giữa tầng thượng và tầng trung của trạm thám trắc dưới lòng đất… còn có một khu vực tầng bị ẩn kín, đồng thời đó cũng chính là khu vực đường dây màu trắng đi vào sao?” – Khi Tư Mã Khôi từ tầng trên xuống, ngang qua đây đã nhìn thấy cánh cửa sắt đóng chặt nằm ở vị trí lửng lơ, không hẳn thuộc tầng trên cũng không hẳn thuộc tầng dưới; thêm nữa, vị trí này cũng giống như khoang bảo mật, không được đánh dấu rõ ràng trên bản đồ. Anh lập tức cùng Thắng Hương Lân tiến hành tìm kiếm. Hai người đi đến trước cửa, thấy cánh cửa sắt vẫn chưa khép hẳn, bên trong là căn phòng kết cấu dầm hộp, trong phòng không có cửa thông gió để thoát khí. Không khí lâu năm không lưu thông, bốc mùi ẩm mốc vô cùng nặng nề, khiến người ta cảm thấy ngạt thở, khó chịu.



Hai người đi đến trước cửa, soi đèn quặng vào bên trong, chỉ thấy trên giá sắt có từng tầng trưng bày rất nhiều mẫu đá. Đứng ở nơi xa trông không rõ lắm, chỉ thấy chỗ nào cũng đen ngòm, dường như đây là nơi đặt mẫu vật lõi đá, tương đương với một khoang bảo mật cỡ lớn khác. Sở dĩ mẫu đá được đặt ngay giữa trạm thám trắc dưới lòng đất, là vì phải đảm bảo trạng thái chân không tốt nhất cho mẫu vật. Căn phòng chỉ có một lối ra vào duy nhất.



Tư Mã Khôi nhìn cửa khoang không có ổ khóa, không lo bị nhốt bên trong, nên lúc này anh mới dám bước vào. Anh thấy trong khoang bảo mật không chỉ cất chứa lõi đá ở các địa tầng khác nhau, mà còn có không ít tiêu bản hóa thạch của các sinh vật và thực vật cổ đại. Tất cả chúng đều được đào từ dưới động đạo sâu hàng vạn mét trong kính viễn vọng Lopnor lên, trên nhãn còn lần lượt chú thích thời gian tiêu bản hình thành và độ sâu địa tầng của nó. Người Liên Xô chưa kịp đóng gói các vật phẩm này vào thùng gỗ vận chuyển lên mặt đất.



Tư Mã Khôi giương súng đi vào nơi sâu nhất, thấy ở tận cùng có một căn phòng biệt lập, mặt trên có lắp cửa sổ quan sát trong suốt. Tư Mã Khôi thầm sinh nghi: “Bên trong đó chứa cái gì vậy? Không lẽ đúng như lời Hải ngọng nói, người Liên Xô đã đào được con yêu quái nào đó dưới lòng đất sao?”. Anh bò lên tấm kính thủy lực rồi nhìn vào trong, ánh sáng đèn quặng như bị hút mất, bên trong đen kìn kịt nhìn không rõ là gì. Thế nhưng anh mơ hồ cảm thấy vào đúng giây phút đó, thứ bên trong cũng đang chằm chằm nhìn lại mình. Tư Mã Khôi bất giác hãi hùng. Thắng Hương Lân giật áo Tư Mã Khôi hỏi: “Anh nhìn thấy gì vậy?”. Tư Mã Khôi đáp: “Tối quá, nhìn không rõ là thứ gì! Có điều tôi cảm thấy thứ bên trong… dường như còn sống.”