Chương 156: Hồi 8: bật lửa

Mê Tông Chi Quốc

Đăng vào: 12 tháng trước

.



Thắng Hương Lân nói tiếp: “Ngay sau đó, thuyền trưởng không chỉ phát hiện hòn đảo này là khối sắt từ khổng lồ, mà nó còn ẩn giấu một bí mật còn đáng sợ hơn, con tàu đã bị hủy hoại hoàn toàn, không còn hi vọng có ai sống sót được nữa. Ông liền ra lệnh cho thuyền viên phát tín hiệu, thông báo đội tìm kiếm ‘không được lại gần’.



Cuốn Nhật trình hàng hải chỉ có bấy nhiêu, những ghi chép về sau, tôi thực sự không hiểu ông ấy muốn viết gì”. Mọi người nghe Thắng Hương Lân đọc cuốn “Nhật trình hàng hải” của Z-615, ai nấy đều thầm kinh hãi. Lúc trước cả hội đội mưa to gió lớn phát hiện ra con tàu, nhưng vẫn chưa kịp xem xét kỹ tình hình dưới nước, thì ra Z-615 bị hòn đảo từ trường hút chặt, mà hòn đảo cô lập trôi nổi trong vòng tròn 30° vĩ Bắc này dường như chính là núi Âm Sơn trong truyền thuyết của nước Sở cổ đại.



Thế nhưng vì sao sau khi lên đảo, đội trinh sát lại không ai trở về? Vì sao không có một thi thể nào còn sót lại trên tàu? Tất cả những thành viên còn lại, họ đã đi đâu? Hải ngọng nói: “Tôi cảm thấy thằng cha thuyền trưởng này đúng là mắc dây diều vào mồm, lão này có khiếu ăn tục nói phét đấy, chắc chắn lão thấy con tàu hỏng nặng, không thể dùng tiếp được nữa, nên một mặt dẫn thuộc hạ chạy trốn khỏi tàu, mặt khác lại lo người ngoài tìm thấy nó, nên mới cố ý bịa chuyện nhát ma người yếu bóng vía đây mà”.



Nhị Học Sinh lại nghĩ khác: “Kỹ thuật tàu ngầm thuộc phạm trù tối mật quân sự, nếu quả thực họ phải rời khỏi tàu vì nó quá hỏng hóc, thì họ sẽ dùng ngư lôi hủy hoại nó hoàn toàn, chứ không thể cứ thế bỏ đi được. Ngoài ra, thủy thể hình tròn tựa con rắn tự ngậm đuôi dưới lòng đất rất giống với đại dương nguyên thủy u tối vô biên vô tận, nên hòn đảo này cũng mãi mãi di chuyển tuần hoàn theo một quỹ đạo cố định bên trong vòng tròn ấy.



Vậy thì những thành viên may mắn sống sót của con tàu Z-615 có thể trốn đi đâu được chứ?” Mọi người rôm rả suy đoán, nhưng cuối cùng vẫn không thể rút ra kết luận gì. Có điều, Tư Mã Khôi cảm thấy dường như chuyện này không còn lựa chọn nào khác, vì cảnh ngộ mà Z-615 gặp phải rất khó phán đoán chính xác nguyên nhân.



Nếu hòn đảo trôi nổi trong vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc quả thực là núi Âm Sơn, được mô tả trong bích họa vu Sở, thì tất cả những manh mối phát hiện từ trước đến giờ đều tập trung ở đây. Bây giờ, anh buộc phải tin rằng, chỉ có tiếp tục vén bức màn bí mật về chân tướng sự thật, thì mới có cơ hội tìm thấy điểm tận cùng của vòng tròn ma quái.



Mọi người đều đồng ý rằng, đây là kế sách khả thi duy nhất, rồi cả hội nghỉ ngơi giây lát trong khoang tàu, đợi mưa bão dừng hẳn, sẽ rời khỏi con tàu hoang phế, chuẩn bị trèo lên núi Âm Sơn. Lúc này, Cao Tư Dương thấy Nhị Học Sinh vẫn chưa bớt sốt, cô lục tung khoang chính của tàu ngầm, nhưng vẫn không tìm thấy viên thuốc nào, liền nghĩ đến việc đi tìm trong những căn phòng ở tầng dưới của tàu ngầm Z-615.



Hội Tư Mã Khôi biết phía dưới khoang chính còn có hai tầng nữa, mỗi tầng nối với nhau bằng hệ thống giếng thang dựng đứng, tầng trên là khoang chứa đạn dược, tầng dưới là khoang chứa nước ngọt. Hai đầu của khoang chứa đạn được thiết kế thêm mấy vách ngăn, có lẽ là khoang dùng để chứa vật tư dự trữ, vì mũi tàu chúi về phía trước, mặt đáy rất chật chội, nên những khu vực có nguy cơ thấm ngước nghiêm trọng thì bây giờ đã hoàn toàn chìm ngập trong nước, bởi vậy khi nãy mọi người mới không xuống dưới xem.



Mọi người lập tức đi xuống hàng lang chính ở gần đó, mở nắp sắt của vách ngăn, trèo qua giếng thang và lần lượt xuống gian phòng dưới tầng hai. Không gian ở đây càng ẩm ướt và ngạt thở hơn. Hai bên đều lắp giá đỡ cố định ngư lôi trợ lực cho tên lửa, soi đèn quặng xem kỹ thì thấy phía dưới toàn là nước ngầm đen ngòm ngòm, có lẽ do khoang trước bị nứt vỡ, cộng thêm nước tù ngấm từ trên xuống, đã nhấn chìm cả phần trước cửa của kho đạn dược.



Cả hội không thể nào tìm cách vào được bên trong khoang ngư lôi phóng xạ. Thắng Hương Lân soi đen quặng lên tấm bản đồ kẹp trong cuốn nhật trình hàng hải, cố gắng nhận biết kết cấu lòng khoang của tầng hai. Cô dự đoán, phía sau chắc còn có mấy khoang phụ, không biết bên trong chứa cất thứ gì.



Tư Mã Khôi thấy không thể thâm nhập khoang trước của tầng hai, liền quay lại khoang sau, đột nhiên anh nghe thấy phía trên đầu phát ra tiếng động nhỏ, liền thuận thế ngẩng đầu nhìn lên, thì chỉ thấy có một cái đầu lấp ló thò xuống lòng giếng thang, cái đầu đó đang nghiêng ngó nhìn xuống, ánh sáng đèn quặng của Tư Mã Khôi vừa vặn soi đúng vào lớp da mặt trắng xám của kẻ mới đến, trông bộ dạng của hắn không khác gì pho tượng một con ma bị chết dìm dưới nước, thất khiếu còn ri rỉ máu.



Những người còn cũng lại lần lượt phát hiện ra sự có mặt của hắn, tất cả đèn pin và đèn quặng đồng loạt soi về phía đó. Trong mấy chùm sáng chuyển động bất định, cả hội nhìn thấy một sinh vật vừa giống người lại vừa không giống người, không rõ nó là loài quái vật gì, mà cái đầu giống như con kì nhông bị lột da, hai con mắt cực kì nhạy cảm với ánh sáng, trên mặt không có mũi, chỉ có mấy tầng nếp gấp thịt, hai bên cổ dường như còn có mang, kéo dài đến tận mép, hình như nó cảm nhận được hơi thở của người sống, nên thò cái lưỡi đỏ như máu bò ngược xuống giếng thang.



Mọi người đột ngột nhìn thấy con quái vật, thì da đầu như bị điệt giật, từng cọng tóc dựng đứng cả lên. Toàn thân con quái vật ướt ròng ròng, nó như một con ma chết đuối mới vớt từ dưới nước lên, động tác của nó nhanh như ma quỷ, không đợi mọi người kịp phản ứng, nó đã nhảy bổ vào trong giếng thang, khẩu súng M-1887 của Tư Mã Khôi không thể xoay chuyển trong không gian chật hẹp thế này, nên anh đành nhanh như cắt lộn người ra sau để tránh nó.



Con ma chết đuối lao theo, đáp đúng xuống khoảng trống giữa Tư Mã Khôi và Cao Tư Dương, rồi chỉ nghe một tiếng “lục cục”, nó đã há ngoác miệng định cắn Cao Tư Dương. Trong lúc hồn vía bay chín tầng mây, Cao Tư Dương vội vàng nổ súng, khẩu súng “pằng” một tiếng trúng ngực con quái vật, viên đạn ghém cỡ 12 bắn xuyên thủng một lỗ lớn qua người con quái vật.



Trong tiếng gào rú thảm thiết, nó rơi thẳng vào người Tư Mã Khôi đang đứng gần đó, rồi lăn lông lốc xuống dưới. Vừa chạm sàn con quái vật đã đứng bật dậy. Cao Tư Dương chưa kịp lên đạn, thì nó đã lù lù xuất hiện ngay trước mặt, cô thấy tình thế nguy cấp, không đủ thời gian né tránh, đành lấy báng súng gắng sức chặn con quái vật.



Nhị Học Sinh và Thắng Hương Lân đứng phía trước cùng lúc hét lên kinh hoàng: “Chết rồi!”. Hải ngọng thấy Cao Tư Dương lâm vào tình thế hiểm nghèo, thì anh lập tức khai hỏa khẩu súng săn gấu Canada, loại đạn dành cho họng súng cỡ lớn đã lập tức xé nát con quái vật ra thành hai mảnh, máu chảy lênh láng khắp mặt sàn.



Ai ngờ, hai cặp móng vuốt của con ác ma vẫn nắm khư khư khẩu súng trường của Cao Tư Dương không chịu buông ra, không những vậy lực nắm còn rất mạnh, làm cách nào cũng không rứt ra được. Lúc này, Tư Mã Khôi vừa nhổm người dậy, anh không dám nổ súng vì trong khoang thuyền chật hẹp, bởi chỉ sợ ngộ nhỡ sát thương đồng đội, hoặc vô tình kích nổ ngư lôi, thế là anh vung dao săn từ phía sau, rạch từng ngón của con quái vật.




Chẳng ngờ, con ác ma tuy mất đầu nhưng vẫn chưa đoạn khí hẳn, những khúc xương ngón cứng chắc vẫn bám riết lấy vách khoang, phát ra tiếng ‘‘ken két”, rồi mười mấy giây sau mới bất động hoàn toàn. Sự cố bất ngờ xảy ra chỉ trong nháy mắt, còn chưa đầy nửa phút, nhưng cả quá trình đó cũng khiến cả hội thót tim như thể vừa lượn một vòng quỷ môn quan trở về, mọi người ướt đầm mồ hôi lạnh.



May mà không gian chật chội trong khoang đã hạn chế hành động của con quái vật, nếu không thì chắc bây giờ trong hội đã có người phải xuống âm tào điểm danh. Hải ngọng bắn vỡ cái sọ còn lăn lóc trên đất, mắng chửi: “Con mẹ mày, mày là cái thứ gì thế không biết, mong rằng không phải ác ma bị đày dưới núi Âm Sơn!” Tư Mã Khôi nói: “Ma thì làm gì có thể xác máu thịt.



Tớ thấy nó chắc là xác chết thành tinh tương truyền từ thuở xa xưa. Nghe nói, con người tồn tại hoàn toàn là do hồn phách, hồn thiêng nhưng phách thì đục, hồn thiện còn phách ác; nếu hồn đã chết mà phách vẫn còn ngưng trệ, thì trong thể xác chỉ còn lại mỗi “phách”, đến lúc đó con người sẽ trở thành cương thi, ban ngày bất động, ban đêm mới xuất hiện đi lang thang khắp nơi”.



Những người còn lại lấy hết can đảm bước đến gần, soi đèn quặng vào chỗ thi thể nát bét những máu với thịt, chỉ thấy sinh vật đó có mang, có vây, móng vuốt sắc nhọn, chi sau rất phát triển, xương đuôi rất dài. Cao Tư Dương nói: “Hình như, khứu giác và thính giác của nó đặc biệt nhạy bén, hơn nữa còn có mang và hình như nó từ dưới nước bò vào trong khoang Z-615.



” Nhị Học Sinh sợ vãi linh hồn, mồ hôi lạnh toát ra như tắm, cơn sốt không biết tự động hạ nhiệt từ lúc nào, cái đầu đang mê man, nặng trịch bỗng chốc trở nên tỉnh táo hẳn ra. Cậu ta nói: “Hình như nó là loài sinh vật bắt mồi nguyên thủy vô cùng hung ác và tàn nhẫn, nghe đồn trước đây tàu đế quốc Mỹ ra khơi tuần tra trên biển, lúc về bắt được một con ‘cá người’ đào được trong băng, còn vì sao gọi nó là cá người, mà không phải người cá? Bởi vì đặc trưng của loài cá trên cơ thể nó rất nổi bật.



Người ta suy đoán, có lẽ nó bị đóng băng ở vùng biển Bắc Băng Dương từ hơn hai trăm triệu năm trước. Sau khi rã đông, không ngờ nó vẫn còn dấu hiệu của sự sống, người ta gọi đó là một mắt xích bị thất lạc trong lịch sử sinh vật. Chuyện này cho đến ngày nay vẫn được liệt vào hàng tài liệu tuyệt mật của quân đội.



Thủy thể dưới lòng đất 30° vĩ Bắc, cũng là nơi hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Hay con quái vật khi nãy cũng là loài ‘cá người’ nhỉ?” Tư Mã Khôi lắc đầu nói: “Đã là tài liệu tuyệt mật của quân đội, thì làm sao chú lại biết được? Năm đó người ta còn đồn đại, bọn Mỹ chế tạo ra bom nguyên tử từ dầu ép bằng tinh hoàn đàn ông nữa cơ.



Đó toàn là tin vỉa hè không có căn cứ, làm sao mà tin được chứ?” Thắng Hương Lân đột nhiên nhớ ra điều gì đó, cô hốt hoảng nói với Tư Mã Khôi: “Có lẽ nó chính là một trong những thành viên trên con tàu Z-615 năm ấy. Anh còn nhớ chuyện quái dị ở lâm trường mà bác đánh xe kể cho chúng ta nghe không?” Nhị Học Sinh trố mắt hỏi: “Con quái vật có mang này trông dáng dấp cũng khá giống người, vì nếu bảo nó là loài động vật máu lạnh nào đó chuyên sinh tồn trong huyệt động, thì nghe có lẽ còn hợp lý hơn, chứ nó làm sao là thủy thủ của con tàu 615 được chứ?” Tư Mã Khôi ngớ người một lúc rồi hỏi: “Chuyện này liên quan gì đến câu chuyện quái dị trong lâm trường nghe kể lúc dọc đường chứ?” Trên đường đến vùng núi Đại Thần Nông Giá, hội Tư Mã Khôi tiện đường đáp nhờ chuyến xe đến lâm trường của ông bác đốn gỗ, rồi trong câu chuyện phiếm, ông bác đánh xe đã kể cho cả hội nghe chuyện tên thổ tặc trong lâm trường trước đây từng vào núi đào bới văn vật đồng xanh của Sở quốc.



Có lẽ, người này đã chui vào đường hầm trong rừng rậm nguyên sinh Biển Âm Dụ, nhưng vẫn chưa đến hố tế lễ đặt thần thú “Sở tải”. Không ai biết hắn đã đào được thứ gì, nhưng sau khi giết chết đồng bọn, hắn đã tìm cách trốn ra nước ngoài, nhưng không may lại bị cảnh sát bắt giữ ngay trên toa xe lửa.



Căn cứ vào lời kể của những nhân chứng trên tàu, gã thổ tặc còn định phi tang chứng cớ, bằng cách ném cái bọc gói một đứa trẻ đã chết xuống sông. Hắn đã cõng án giết người, một lúc hai chết ba mạng, kiểu gì cũng không tránh khỏi án tử hình, nhưng từ đầu chí cuối hắn vẫn kiên quyết không chịu nhận tội giết đứa trẻ, chỉ nói thứ mình vứt xuống sông là minh khí đồng xanh của Sở quốc.



Đến tận lúc bị áp giải ra pháp trường xử bắn, hắn vẫn khăng khăng không chịu nhận tội. Từ đó, câu chuyện về hắn trở thành chuyện quái dị được lưu truyền rộng rãi khắp lâm trường. Lúc đó, Tư Mã Khôi cũng chỉ nghĩ: chuyện đâu nghe xong để đấy, hơi đâu mà đi kiểm chứng xem nó thật giả thế nào, vì có khi đến chín phần là bịa đặt ấy chứ, bởi ngay cả lô gích cơ bản nhất của cả chuỗi sự kiện cũng không có, đúng là điển hình cho loại chuyện lưu truyền trong dân gian.



Khi đó, Thắng Hương Lân vẫn nằm ngủ trên xe, nhưng thực ra cô đã nghe hết từ đầu đến cuôi câu chuyện. Tư Mã Khôi vẫn tự nhận mình là người nhanh trí, nhưng đến bây giờ anh vẫn thực sự không thể hiểu hai chuyện “gã thổ tặc bị lâm trường thẩm vấn bắn chết” và “cả hội bị quái vật tấn công trên tàu Z-615” rốt cuộc có liên quan gì đến nhau.



Tư Mã Khôi đang định hỏi kỹ, thì lại nghe thấy có tiếng động vọng lại từ trong khoang. Anh vội vàng soi đèn lên giếng thang, thì thấy một cái bóng trắng lướt qua, nghe động tĩnh có thể phán đoán, trong khoang thuyền không phải chỉ có một vị khách không mời mà đến. Mọi người biết tình hình không ổn, nếu vẫn còn lũ sinh vật này nhảy vào tàu ngầm; vì đối phó với từng con trong khoang chứa đạn chật hẹp, còn cuống quýt hết cả chân tay, huống hồ là cả bầy, vả lại địa hình ở đây vô cùng bất lợi, chui xuống từ thang giếng khác nào đợi chết, thế là mọi người liền nhanh tay đóng chặt nắp khoang lại, ai ngờ mặt nước ở khoang trước lại lay động dữ dội.



Tư Mã Khôi lập tức xoay đèn quặng chiếu về phía đó, anh nhìn thấy một khuôn mặt quái dị, trắng bệch như ma chết đuối đang từ từ ngoi lên. Anh biết cả hội bây giờ đang lâm vào tình huống vô cùng ngặt nghèo, xem ra tất cả đã bị bao vây trong khoang tàu. Lúc này, Hải ngọng xông lên vác súng chĩa thẳng về mặt nước.



Con quái vật chưa kịp thò mặt ra, đã bị bắn vỡ nửa cái sọ, máu nhuộm đỏ trong khoang, khắp nơi nồng nặc mùi tanh tưởi. Ngay phía sau con quái vật, còn vô số đồng loại của nó, chúng ồ ạt chui vào khoang tàu từ khe nứt trên khoang ngư lôi phóng xạ. Tư Mã Khôi thấy có con đang trườn xuống từ giếng thang, anh vội tóm lấy Hải ngọng lúc này vẫn đang bận bịu lên đạn, rồi hét lớn: “Không chống lại chúng được dâu, mau rút ra khoang sau thôi”.



Mọi người nhanh chóng bước giật lùi về vách ngăn khu vực phía sau tầng hai, hợp lực đẩy bánh lái định đóng cửa khoang, nhưng có một cánh tay trắng ởn từ ngoài khoang bỗng dưng thò vào, vừa vặn kẹp ngay giữa khe cửa, khiến cả hội không thể nào khép chặt được cửa tàu. Hội Tư Mã Khôi tự biết, thời khắc này mà không đóng được cửa tàu, thì chắc chắn cả lũ sẽ mất mạng.



Mọi người hét lớn rồi nhất tề đẩy thật mạnh cánh cửa, gắng hết sức xoay bánh lái đến tận cùng. Cánh tay kẹt ở giữa bị ép đến nỗi máu thịt trộn lẫn vào nhau be bét, nửa cánh tay với nguyên bàn tay mắc cả da lẫn thịt vào trước cửa, ngón tay vẫn không ngừng cử động. Cao Tư Dương không dám nhìn, cô đưa tay quệt mồ hôi lạnh trên trán, quay người xách đèn cácbua.



Cô xem xét tình hình trong khoang vách ngăn trước, thấy có bốn chiếc thùng sắt lớn đóng cố định, đang định nhìn kỹ xem nhãn mác dán bên trên thì Nhị Học Sinh đột ngột thổi tắt đèn cácbua. Cao Tư Dương giật nảy mình, hỏi: “Anh làm gì vậy?” Nhị Học Sinh căng thẳng quá, mặt vàng như nghệ, run lập cập nói: “Trong thùng đựng chất lỏng hydrogen, chỉ cần dính tí lửa thôi, thì cả chiếc Z-615 này sẽ nổ tung lên trời cho coi!” Thắng Hương Lân soi đèn quặng bốn phía xung quanh, cô phát hiện trên thân thùng quả nhiên có dán nhãn mác dung dịch hydrogen.



Theo nội dung ghi trong cuốn nhật trình hàng hải, thì ngoài động cơ diesel ra, tàu ngầm Z-615 còn lắp đặt bình khí hydro đang trong giai đoạn thử nghiệm, dùng để cung cấp nguồn nhiên liệu, phục vụ những chuyến đi dài ngày trên biển. Vì vấn đề an toàn, những thùng sắt này được đặt trong khoang riêng, nhưng vì thùng chứa được thiết kế chưa hoàn thiện, nên vẫn tồn tại khả năng bén nổ bất cứ lúc nào, bởi vậy loại nhiên liệu này còn có tên gọi là “bật lửa”.



Nhìn thông số ghi trên nhãn mác có thể thấy rõ, mỗi thùng sắt đều chứa đầy ắp dung dịch, có lẽ vẫn chưa bị tràn ra ngoài, nếu không, lúc cả hội vừa xách đèn cácbua vào khoang thì nó đã nổ tan thành xác pháo. Nghĩ đến cảnh tượng đó, hội Tư Mã Khôi ai nấy đều sợ tái mặt. Tư Mã Khôi biết rõ tình hình, cũng thầm than khổ.