Đăng vào: 12 tháng trước
Di vật kỷ Devon giãy giụa muốn thoát ra khỏi lòng bức tường, bốn phía xung quanh đội khảo cổ toàn là đá vụn và tường đổ nát, mọi người bò lên đến đỉnh tấm bia nuốt rắn đổ nghiêng, thì hết đường. Hải ngọng thả đội trưởng Lưu Giang Hà đang cõng trên lưng xuống, lấy tay quệt lung tung cả máu tươi và đất bụi trên mặt, thở hổn hển nói với hai người còn lại: “Bận này đúng là gặp phải ngưỡng không thể vượt qua được rồi!” Tư Mã Khôi cũng cảm thấy tuyệt vọng cùng cực: “Nếu không dùng thuốc nổ phá tường, có lẽ còn sống lâu thêm được chút, bây giờ thì hay rồi, còn biết chạy đâu bây giờ?” Thắng Hương Lân nhìn tấm bia nuốt rắn lần nữa, chợt kinh ngạc, vội nói với Tư Mã Khôi:
“Năm 1958, thời gian của đội khảo sát không hề bị biến mất…” Tư Mã Khôi không rõ Thắng Hương Lân đã nghĩ ra điều gì, nhưng tính mạng mọi người chỉ còn tính bằng giây, cho dù khoảng thời gian sau khi đội khảo sát tử nạn không bị biến mất đi chăng nữa, thì cũng không thể thay đổi được hoàn cảnh hiện tại của họ.
Tư duy Thắng Hương Lân rất nhanh nhạy, lúc này cô đã nhận ra: sự việc không như mọi người phỏng đoán lúc ban đầu, bởi sau khi chuyên gia tóc bạc gặp đội khảo cổ thì ông ta mới chết, bởi vậy mọi người từ đầu chí cuối đều có phán đoán sai lầm là “tiên nhập vi chủ” – nghĩa là người vào trước là chủ, kẻ vào sau là khách, cho rằng thời gian từ năm 1958 đến năm 1974 bị biến mất dưới lòng đất.
Kì thực, không gian bị xác di vật kỷ Devon bao quanh, bên trong nó không hề có bất kì hiện tượng bất thường nào, mặc cho đội khảo cổ dừng lại ở địa cung bao lâu, thời gian cũng không biến mất, nếu thời gian bên cạnh chuyên gia tóc bạc đã từng biến mất, thì ông ta đã sớm bị hư vô xé nhỏ thành các hạt nguyên tử từ lâu rồi, ngay cả thi thể cũng không thể tồn tại nữa.
Điểm kì quái đích thực, có lẽ chính là cái xác di vật kỷ Devon. Năm 1943, hải quân Mỹ từng tiến hành một thí nghiệm cơ mật ở Philadelphia(1) dựa trên lý thuyết “giả thuyết về chiếc hộp thời gian” do Tesla đề ra. Hiểu một cách ngắn gọn là: lý thuyết bức xạ điện từ và trọng lực nếu được triển khai cùng với một số thiết bị đặc biệt và năng lượng cần thiết thì có thể bẻ cong ánh sáng xung quanh và làm cho vật thể trở thành vô hình.
Họ đề nghị cung cấp tàu khu trục USS Eldridge cho cái gọi là “Dự án Cầu vồng”. Những bước thử nghiệm đầu tiên bắt đầu vào tháng 7 năm 1943 và đạt được thành công đáng kể. Nhân chứng nói rằng, họ chỉ còn thấy chiến hạm Eldridge như một “chú ếch màu xanh”, tuy nhiên thủy thủ đoàn lại rất phản đối vì cảm giác nôn mửa kinh hoàng chưa từng có, buộc Ban chỉ huy lực lượng Hải quân Mỹ phải ra lệnh tạm dừng.
Thí nghiệm chính thức được tiến hành vào ngày 28 tháng 10 năm đó, trên vùng biển Philadelphia, bang Pennsylvania, Mỹ. Lần này, Eldridge không chỉ trở thành vô hình trước mắt nhân chứng, mà còn biến mất không dấu vết trong tầm kiểm soát của sóng ra đa. Lạ lùng hơn, ngay cùng thời điểm đó, căn cứ Hải quân Mỹ tại Norfolk, bang Virginia nằm cách xa hơn 600 kilômét báo cáo: đã nhìn thấy Eldridge ngoài khơi trong vài phút, sau đó thì mất tăm – đó cũng là lúc Eldridge lại tái xuất hiện trên biển Philadelphia.
Chấn động tâm lý để lại cho các thủy thủ trên chiếm hạm Eldridge mới thật nặng nề, sau thí nghiệm, phần lớn những binh sĩ này ốm thập tử nhất sinh, không ít kẻ rơi vào trạng thái hoang tưởng hoặc tâm thần phân liệt, chưa kể một số trường hợp được ghi nhận là “mất tích không dấu vết”.
Quá hoảng hốt trước các sự việc trên, quan chức Hải quân Mỹ đã ra lệnh dừng thí nghiệm ngay lập tức. Lần lượt sau đó, những thủy thủ còn may mắn sống sót bị đào thải ra khỏi quân đội. Có người nói, họ còn bị tẩy não để quên đi mọi chi tiết về cuộc thí nghiệm kinh hoàng trên biển Philadelphia năm đó.
[1] Philadelphia: một trong những thành phố lớn và cổ xưa nhất ở Mỹ. Thí nghiệm này chứng tỏ, trong giới tự nhiên quả thật tồn tại một không gian thần bí và biệt lập, xung quanh nó là thứ vật chất mịt mù không thể xuyên qua, nó chính là “vô” mà Tư Mã Khôi nhắc đến.
Chính vì cung điện nằm trong xác di vật kỷ Devon, tương đương với hộp thời gian bị “vô” bao quanh, nên chỉ có một thông đạo duy nhất tương tự như trùng động vừa rồi mới có thể xuyên qua tọa độ thời gian tuyến tính. Đội khảo sát năm 1958 và độ khảo cổ năm 1974, đều từng đi qua trùng động để tiến vào chiếc hộp thần bí này, khiến thời gian của kẻ trước người sau giao thoa lẫn nhau.
Vào thời khắc nguy cấp này, Thắng Hương Lân không kịp giải thích dài dòng với hai người, chỉ hình dung trùng động nằm trên xác di vật kỷ Devon chính là một thông đạo tồn tại khách quan. Chỉ có điều, lòng đất đặc quánh mây từ, không gian vật lý xung quanh lại bị bẻ cong, bởi vậy nếu đội khảo cổ quay trở lại theo đường cũ, sẽ không thể tìm thấy trùng động.
Tư Mã Khôi và Hải ngọng đưa mắt nhìn nhau, hai người biết Thắng Hương Lân không bao giờ suy luận thiếu căn cứ, nếu tìm thấy trùng động phía trên cái xác di vật kỷ Devon, tức là có cơ hội chạy thoát ra ngoài; nhưng tứ bề tối đen như đêm ba mươi, chỗ nào cũng bị sụt lở, rất nhiều nơi bị gạch đá vụn lấp kín, nên mọi người chỉ còn cách cố đứng vững trên tấm bia nuốt rắn.
Tình thế bây giờ vô cùng cấp bách, không chừng chẳng kéo dài nổi dăm phút nữa, làm sao đi xa được mà tìm trùng động? Ba người không nghĩ ra kế sách gì, cũng không biết phải làm thế nào. Lúc này, họ lại nghe thấy những âm thanh “chít chít sàn sạt” từ xa đang cuốn đến gần, soi đèn xem, thì thấy bầy cua móng ngựa độc đông nghìn nghịt đang kéo bè kéo đảng từ các đường khe bị nứt vỡ sụp đổ chảy trào ra ngoài, nhanh chóng vây quanh tấm bia nuốt rắn từ bốn mặt tám hướng.
Hải ngọng không ngớt than khổ: “Sao bọn âm hồn không tan này bám dai như quần rách vướng cẳng chân thế không biết, sắp chết đến nơi rồi mà vẫn muốn ăn thịt người nữa sao?” Tư Mã Khôi vừa nhìn chằm chằm bọn bọ ăn xác đang ào đến, vừa nói với Hải ngọng: “Trại chủ Hải ngọng đúng là nói quá chuẩn! Bọn cua móng ngựa này tuy là sinh vật sinh sôi trong xác chết ở hầm mộ núi sâu, nhưng bọn nó có tư duy ý thức đàng hoàng đấy, có điều cùng một lúc chỉ nghĩ được một việc thôi, khi nãy tường đá sụp vỡ làm bọn nó kinh động, chỉ lo tìm đường thoát thân, bây giờ gặp người sống thì quên phéng mất chuyện phải tháo chạy, nên ý thức bọn nó bây giờ chỉ chăm chăm muốn gặm và hút não với nội tạng của con người.
Nếu cậu giẫm cho nó tan xác, thì nó không nghĩ ra nổi chuyện gì nữa đâu”. Hải ngọng không biết Tư Mã Khôi nói thật hay giả, nhưng cứ nghĩ đến cảnh tượng thảm thương của các thành viên đội khảo sát, thì anh bủn rủn hết cả người, bị bọn ăn xác này chui từ thất khiếu vào lục phủ ngũ tạng, rồi luồn cả vào óc tủy, chi bằng bây giờ mình tự kết liễu cuộc đời, chết cho nó thống khoái vậy.
Thế là anh liền quay sang bảo Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân: “Cuối cùng ngày hôm nay, Hải ngọng tớ cũng cách mạng triệt để rồi. Chào các cậu! Tớ đi gặp Diêm Vương trước nhé, xuống dưới đó tớ sẽ chiếm chỗ hộ các cậu …” Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều thuộc hạng bản lĩnh mồm mép cao siêu.
Trước kia, khi quân cộng sản Miến Điện bị nhốt trong rừng rậm nguyên sinh, lương hết đạn kiệt, rơi vào đường cùng, những thành viên còn lại bất cứ lúc nào cũng có thể bị quân chính phủ tóm cổ, hoàn cảnh gian nan, hiểm ác đến cực điểm như vậy, mà anh chàng vẫn tiếc không nỡ cho đầu ăn đạn, nên Tư Mã Khôi cho rằng Hải ngọng chỉ nói đùa.
Nào ngờ, đúng lúc đó bên tai vang lên tiếng súng nghe “pằng!” một cái, tiếng súng quá đột ngột khiến Tư Mã Khôi phút chốc đổ mồ hôi lạnh khắp người, anh cuống cuồng quay đầu lại nhìn, thì ra người nổ súng không phải Hải ngọng, mà là đội trưởng Lưu Giang Hà đang nằm vật trên tấm bia.
Tình trạng vết thương của cậu ta rất nặng, nửa thân dưới đã hoàn toàn tê liệt cứng đờ, nhưng não thì vẫn lờ mờ còn chút ý thức, cậu ta biết rõ mình coi như hết đường sống, vì không muốn bản thân liên lụy đến ba người còn lại, nên nhân lúc cánh tay trái vẫn còn tri giác, đội trưởng liền với lấy khẩu súng lục K54 đặt cạnh ba lô Thắng Hương Lân tự ra tay kết liễu đời mình.
Từ khi mọi người bước vào tòa thành cổ dưới lòng đất, mọi khẩu súng đều trong trạng thái lên quy lát sẵn sàng, bất cứ lúc nào cũng có thể ngắm bắn, khi nãy mọi người mải chú ý tình hình xung quanh, nên không phát hiện ra hành động của Lưu Giang Hà. Chỉ có điều lựa chọn quyết định sinh tử đâu phải chuyện dễ dàng, vào khoảnh khắc bóp cò, lòng Lưu Giang Hà lại trở nên yếu đuối, cùng lúc tiếng súng vang lên, cánh tay lại hơi run rẩy, nên kết quả đạn không xuyên qua não, mà lại bắn trúng má, xuyên thùng từ má bên này sang má bên kia, đến khi mọi người kịp nhận ra, thì đội trưởng đã lăn xuống chân tấm bia nuốt rắn theo quán tính.
Thắng Hương Lân cuống quýt giơ tay ra cứu, nhưng trong chớp mắt, bọn cua móng ngựa đã bò đen nghìn nghịt khắp thân thể cậu đội trưởng, Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn mà lạnh thấu tận đáy tim, vội vàng kéo Thắng Hương Lân trở lên đỉnh tấm bia. Ba người soi đèn quặng xuống, cảnh tượng phía dưới thực sự làm người ta rùng rợn khiếp đảm, đội trưởng Lưu Giang Hà khắp người đầm đìa máu tươi, lúc lăn xuống đè nát mấy con bọ, chất dịch bên trong tiếp xúc với không khí nhanh chóng biến thành axít đậm đặc, cả cơ thể một con người đang sống mà chỉ trong nháy mắt, ngay xương cốt cũng không còn, những con bọ ăn xác xung quanh vẫn cố sống cố chết bò đến ăn hôi, thì đều bị axít hóa kiếp, axít từ khe nứt trên mặt đất, thẩm thấu xuống dưới, rơi vào da thịt di vật kỷ Devon, nó tức khắc hóa thành khối nước đen.
Di vật kỷ Devon bắt đầu dần chết rục dưới sức ăn mòn của axít, lớp vỏ của nó từ trên xuống dưới nứt vỡ ra tứ phía rồi rơi xuống, hội Tư Mã Khôi thấy dưới chân sắp sụt đến nơi, đành bám vào vách tường sắp đổ, tìm đường trèo lên chỗ cao hơn, may mà đứng trong đại điện kiên cố nhất nên mới không bị gạch vỡ đá vụn đè bẹp và vùi xác phía dưới.
Lúc này, cái xác của di vật kỷ Devon chẳng còn sót lại là bao, cung điện dưới lòng đất cũng bị sụt lún mất một nửa, cả tòa điện lộ ra trong huyệt núi lửa. Hội Tư Mã Khôi không ngờ lại có kết quả này, bất kể là vô tình hay hữu ý, cơ hội tháo thân lần này đã phải đánh đổi bằng sinh mạng của đội trưởng Lưu Giang Hà, không những thế cậu ta đã chết vô cùng thảm khốc, bởi vậy không ai cảm thấy may mắn vì tai qua nạn khỏi, mà chỉ thấy dường như có tảng đá ngàn cân đang đè nặng cõi lòng, thổn thức đến độ không thở nổi.
Ba người cố gắng át chế cảm xúc bi thương, bới lật đám đất đá đổ nát chất cao như núi ở gần đó, rồi từ thông đạo trong cái xác tàn lưu của di vật kỷ Devon rời khỏi đống hoang phế của cung điện dưới lòng đất, đang định mò mẫm tìm cửa ra, thì bốn phía bỗng tối sầm lại, chùm sáng đèn quặng càng lúc càng mờ mịt, da đầu ai nấy giật lên từng hồi, cảm thấy ở nơi sâu trong bóng tối, phảng phất tồn tại một lực hút mạnh khủng khiếp, nó như muốn kéo linh hồn ra khỏi thể xác vậy.
Sắc mặt Tư Mã Khôi thay đổi đột ngột, những kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ vẫn chưa thoát nạn, thể xác của di vật kỷ Devon đã chết, nhưng linh hồn của nó thì vẫn tồn tại. Thắng Hương Lân cũng ý thức thấy, tuy thể xác của di vật kỷ Devon đã bị hủy diệt nhưng “vô” trong cơ thể nó không thuộc về bất kì loại vật chất nào, nên chất ăn mòn hoàn toàn vô tác dụng với nó.
Ba người đâu ngờ đội trưởng Lưu Giang Hà chết thảm thương như vậy, mà lại không có chút ý nghĩa nào, ai nấy đều cảm thấy tiếc thay cho cậu. Lúc này, cả hội đang ở trong đáy lòng núi lửa, xung quanh toàn là sườn núi dốc đứng, vây quanh như cái thùng sắt, trừ phi mọc thêm đôi cánh, thì mới mong bay đến chỗ đoạn dây thừng thòng xuống miệng hố lúc trước.
Trong khi đó, vật chất mịt mù tàn lưu của di vật kỷ Devon đã rũ bỏ được sự trói buộc của thể xác, nó không ngừng khuếch tán một cách nhanh chóng, tựa hồ một con mãng xà khổng lồ phun nhả yêu khí đang bừng tỉnh giấc trong vực sâu tăm tối. Đầu Tư Mã Khôi ong ong, anh nhớ ra ở rìa huyệt núi lửa có cánh cửa đá, thông với tòa thành cổ quấn quanh ngọn núi.
Cánh cửa khổng lồ đó đóng theo chiều từ trong ra ngoài, hai bên đều có pho tượng đồng, từ ngoài đẩy vào nó không hề nhúc nhích, giờ đây nói không chừng chỉ có chạy đến đó rồi tìm cách đẩy từ trong ra, nếu cách này ổn thỏa thì chắc đó sẽ là con đường sống, nếu không xong thì cả hội phen này đành lượn xuống Quỷ Môn Quan vậy.
Hải ngọng cũng biết cánh cửa đó kiên cố vô cùng, trọng lượng đâu chỉ ngàn cân, trải qua năm rộng tháng dài, quanh thân nó mọc đầy rong rêu, tựa hồ nó sắp bén rễ xuống đất đến nơi, mà chỉ dựa vào sức lực ba thành viên may mắn sống sót của đội khảo cổ, thì chắc chắn không thể chuyển dịch được nó.
Nhưng điều ấy không quan trọng, cùng lắm thì đâm đầu vào đó “rầm” một cái là được chết thoải mái, chết sung sướng, còn tốt chán so với cái chết đau đớn đến từ từ khi cơ thể bị rữa nát ở nơi địa ngục quái quỷ kia. Ba người lập tức chạy về hướng cửa đá dưới chân núi, Tư Mã Khôi và Hải ngọng quyết chết, miệng đồng thanh thét lớn, đang định lên trước động thủ, thì Thắng Hương Lân bỗng nhiên cản hai người lại: “Đừng qua đó! Không được đi về hướng bên ấy nữa…” Tư Mã Khôi đâu phải không biết cân nhắc nặng nhẹ, cả tòa thành cổ trong lòng đất đều sẽ bị “vô” nuốt chửng, cho dù có chạy thoát khỏi huyệt núi lửa, e rằng cuối cùng vẫn không tránh nổi cái chết, nhưng chó cùng dứt dậu, khi chưa què chân cụt tay, lẽ nào cam tâm ngồi đây đợi chết hay sao? Thắng Hương Lân nói: “Anh nghe tôi nói xong đã, nếu chúng ta rời khỏi huyệt núi lửa, cả ba chúng ta chắc chắn sẽ chết”.
Hải ngọng nghe mà u mê hết cả đầu, bây giờ còn chưa biết có đẩy được cánh cửa đá hay không, sao lại nói rời khỏi đây thì khó tránh khỏi cái chết? Tư Mã Khôi thấy lòng chợt kinh động, anh bỗng nhận ra ngọn núi lửa đứng cô lập trong lòng đất này có vẻ gì không ổn lắm, nói đúng hơn, nó căn bản không phải núi lửa.