Đăng vào: 12 tháng trước
Thế giới lần đầu giải mã ẩn số hãi hung về vũng xoáy tử thần 300 vĩ Bắc theo một góc nhìn mới.
Khe sâu u minh ẩn dưới núi cao, bí mật huyền hoặc giấu trong biển rộng.
Biển Âm Dụ nằm ở 300 vĩ Bắc dưới lòng núi Thần Nông Giá, rốt cục che đậy sự thật kinh thiên động địa gì?
Tổ chức tà ác Nấm Mồ Xanh nâng cấp âm mưu táng tận lương tâm, điên rồ cuồng loạn, tiếp tục vấy gió tanh mưa máu.
Sa lầy nơi địa ngục sâu vạn trượng.
Kẻ nhát gan tử nạn, người nhẹ dạ thiệt thân.
Bạn đang lún chân vào vòng luân hồi sinh tử không có lối thoát.
Đối diện với vòng tròn ma quái đáng sợ, vĩnh viễn không thể hóa giải…
Tư Mã Khôi cho rằng, minh khí(1) đồng xanh khổng lồ mà đội khảo cổ phát hiện dưới lòng đất, tuy đã tồn tại cả ngàn năm nay, nhưng không hề bị ôxy hóa làm cho han gỉ, có thể trong thành phần của nó pha trộn hỗn hợp kim loại của vẫn thạch, nhìn bề ngoài thì chắc chắn là đỉnh Vũ Vương mà cổ nhân đã tạo ra ở Yên Sơn. Vì thân đỉnh có đúc Sơn Hải Đồ, nên tất cả hình họa và phù hiệu thần bí trên đó đều liên quan đến vô số thông tin quan trọng thời viễn cổ như địa lý, địa mạo, sông ngòi, đầm trạch, sa mạc, đất ngập nước và cả những thay đổi lớn lao dời non lấp bể, phân bố khoáng vật, thực vật, quá trình di cư và tuyệt diệt, biến đổi và tiến hóa của muông thú muôn loài…
[1] Minh khí: đồ bằng gốm, đồng… được làm thu nhỏ, mô phỏng theo vật thật, để thờ cúng hoặc chôn theo người chết.
Trong chín chiếc đỉnh có một chiếc đúc hình đầu trâu mặt ngựa, được xếp lớp lang theo thứ tự thời gian và độ sâu tầng đất, cổ nhân đã căn cứ vào đó để ghi lại địa hình địa mạo, các loại khoáng quặng và sinh vật cổ quái của bốn cực. Tầng sâu nhất là một hắc động giống như vực sâu không đáy, bên trong lấp ló thứ gì đó hình thù kì dị nửa ẩn nửa hiện, không rõ rốt cuộc là vật gì, vị trí và các đặc điểm của hắc động này hoàn toàn trùng khớp với miếu thần mà đội khảo cổ đang muốn tìm.
Bên cạnh mỗi bức vẽ đều được chú thích bằng chữ triện cổ rất nhỏ, Tư Mã Khôi cố gắng đọc, nhưng có lẽ đó là văn tự long ấn triều Hạ, nên anh đành bó tay bất lực, không nhận ra chữ nào. Chỉ có đỉnh Vũ Vương là cội nguồn của cổ thuật tướng vật, Tư Mã Khôi nghe đồn đã lâu, nên mới không khó phỏng đoán lai lịch của nó. Nghe nói, Sơn Hải Kinh – một cuốn cổ tịch địa lý thời Tần cũng được phỏng tác từ Sơn Hải Đồ khắc trên thân chiếc đỉnh cổ này, có điều nội dung bên trong đã bớt đi vài phần chân thực.
Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi nói hoàn toàn hợp logic, có lẽ cũng không sai lệch so với thực tế là bao, lòng cô bất giác thất kinh. Trong các lăng tẩm của các đế vương chư hầu, vật phẩm tuẫn táng quan trọng nhất chính là đỉnh đồng. Đỉnh đồng chính là quốc bảo, nên chỉ có bậc đế vương mới đủ tư cách mang cửu đỉnh tuẫn táng theo mình, bởi nó đại diện cho chín châu. Nếu ngược dòng lịch sử tìm về cội nguồn, thì đỉnh đồng đúc ở Yên Son của Vũ Vương có thể coi là cái đỉnh ông tổ, vì vậy Vũ Vương còn gọi nó là đỉnh mẫu, Sơn Hải Đồ chạm khắc trên thân đỉnh là những bí mật kinh thiên động địa. Thế nhưng ghi chép về nguồn gốc của đỉnh đồng Vũ Vương trong lịch sử hầu như rất đại khái, không rõ ràng, vậy mà không ngờ, nó lại xuất hiện trong tòa thành cổ dưới lòng đất này.
Hải ngọng nhìn mãi mà vẫn không hiểu gì, liền sốt ruột giục: “Đâu? Bản đồ đâu? Tôi thấy mấy cái đỉnh đồng to tổ bố này chẳng có tí ý nghĩa thực tế nào với đội khảo cổ bọn ta cả. Mau rời khỏi đây thôi! Đừng mất thời gian với nó nữa!”.
Tư Mã Khôi nói: “Hải ngọng nhà cậu đúng là đồ ăn no vác nặng, trước đây suốt ngày nghe giáo sư Nông địa cầu nói cái gì mà quốc bảo “Tứ dương phương tôn” (2) , “Quách quý tử Bạch bàn” (3) , kiếm Việt Vương, gương Tần đế đấy thôi, nhưng nếu đặt trước cái đỉnh bằng đồng xanh này thì mấy thứ kia chỉ là hạng tép riu đáng hàng con cháu. Đây đúng là cơ duyên ngàn đời khó gặp, đồng thời cũng là phát hiện quan trọng nhất kể từ khi chúng ta từ Đại Sa Bản tiến vào lòng đất đến nay đấy!”.
[2] Tứ dương phương tôn: là một trong những quốc bảo đặt ở viện bảo tàng Nhân dân Bắc Kinh,đó là bình đựng rượu làm bằng đồng xanh, bốn góc gắn bốn cái đầu cừu.
[3] Quách (hoặc Quắc) Quý tử Bạch bàn: được xếp vào quốc bảo hạng nhất của Trung Quốc. Đó là chậu rửa tay của Quắc Tuyên Công, còn gọi Quắc Quý tử Bạch. Trong lòng chậu có 111 chữ triện cổ ghi lại chiến công Quắc Quý tử Bạch đại thắng quân Hung Nô ở bờ bắc Lạc Hà.
Anh nói xong thì quay sang hỏi Thắng Hương Lân xem liệu cô có thể phác họa tại chỗ những họa tiết trên thân đỉnh đồng không. Những hình vẽ cổ xưa ghi lại mọi bí mật dưới lòng đất này vừa thần bí vừa phức tạp, dẫu kiếm cả một phân đội đến phác họa, e rằng cũng không thể hoàn thành trong ngày một ngày hai, huống hồ đội khảo cổ có bốn người, mà lại chỉ mình Hương Lân nắm được món kỹ thuật này, còn ba người còn lại thì có nhìn bầu cũng vẽ ra dưa, không giúp được trò gì.
Thắng Hương Lân nói: “Bích họa mới phải phác họa tại chỗ, còn những hình vẽ khắc trên đỉnh đồng chỉ cần dập thác bản trực tiếp là xong, cũng không tốn thời gian lắm”. Nói xong, cô liền lẩy thác bản trong ba lô ra, dập vào mấy cụm hình trên cái đỉnh cổ, rồi vẽ các ký hiệu chú thích vị trí.
Hội Tư Mã Khôi toàn là dân ngoại đạo, không mó tay vào được, đành đứng bên hút thuốc chờ đợi, bàn tính tiếp theo sẽ đi khảo sát địa cung trong lòng núi.
Đội trưởng Lưu Giang Hà đứng ngoài cảnh giới, anh chàng tò mò hỏi Tư Mã Khôi: “Thủ trưởng Khôi, khi nãy thủ trưởng nói cái đỉnh đồng này có ý nghĩa to lớn với đội khảo cổ chúng ta. Thế rốt cuộc nó có ý nghĩa gì vậy?”
Hải ngọng bĩu môi: “Cái ngữ đấy có từ mấy ngàn năm trước thử hỏi có nổi ý nghĩa quái gì chứ? Cậu nhiễm tư tưởng mê tín phong kiến điển hình mất rồi, định quay về con đường tăm tối đấy hả? Lẽ nào cậu còn muốn lôi đội khảo cổ đi theo vết xe đổ trên lối làm việc sai lầm của chủ nghĩa xét lại.”
Đầu Tư Mã Khôi đang rối bời, anh không tìm ra manh mối nào rõ ràng nào cả, nên cũng không còn tâm trí ngồi tán nhăng tán cuội với Hải ngọng. Anh đành nói: “Thật ra mục tiêu mà đội khảo cổ và tổ chức ngầm Nấm mồ xanh muốn tìm, giờ đây hoàn toàn giống nhau, đó chính là khu vực chưa biết nằm gần tâm Trái đất, Triệu Lão Biệt gọi nó là miếu thần, có lẽ nó là một hắc động bị sụt xuống do năng lượng tầng quyển manti tập trung với mật độ lớn. Vị trí cụ thể của hắc động và những bí mật tồn tại bên trong nó đều vượt xa khả năng lý giải của chúng ta.
Manh mối xác thực duy nhất mà đội khảo cổ tìm được cho đến giờ phút này, chính là tòa thành cổ dưới lòng đất và Sơn Hải Đồ khắc trên thân chiếc đỉnh cổ Vũ Vương. Tiếc là chúng ta không thể giãi mã được những chữ triện cổ thời Hạ, chỉ dựa vào mỗi mấy hình vẽ thần bí kì quái kia thì rất khó làm rõ chân tướng của nó. Gã kỹ sư thăm dò vật lý Điền Khắc Cường của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, cũng chính là tên đặc vụ có biệt danh căn phòng số 86 quanh năm mai phục ở sa mạc Gobi ở Tân Cương để theo dõi sát sao mọi động tĩnh xảy ra trong kính viễn vọng Lopnor, điều này chứng tỏ dưới lòng đất chắc chắn phải tồn tại thứ gì đó, trực tiếp uy hiếp đến mục tiêu của tổ chức đó. Tôi đoán, những bí mật đó đang được giấu kín trong chiếc đỉnh đồng Vũ Vương này. Vì vậy, nếu đội khảo cổ chúng ta muốn tiếp cận với hắc động gần tâm Trái đất, thì bắt buộc phải phá giải được ẩn số ở đây.
Điểm tận cùng của biển cát dưới lòng đất là tòa thành cổ được xây dựng bao quanh ngọn núi lửa, lòng núi lại chứa địa cung. Văn tự chữ triện cổ thời nhà Hạ và cái đỉnh bằng đồng xanh to lớn kia, đều là chứng nhân chứng tỏ nó từ lưu vực sông Hoàng Hà di cư xuống đây. Vào thời điểm ấy, con người còn thưa thớt, thú hoang thì nhiều vô số kể, núi lở dữ dội, biển cả dậy sóng, môi trường tự nhiên vô cùng khắc nshiệt, khắp nơi đều có người ở dưới động huyệt. Sự tồn tai của đỉnh đồng chứng tỏ, khi đó đã kết thúc thời đai hồng hoang, tòa thành hoang phế này có lẽ được hậu duệ các vương triều Hạ Thương để lại, bởi vậy, chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm khắp địa cung, hi vọng sẽ tìm thấy phát hiện mới nào đó.”
Lúc này Thắng Hương Lân đã in thác bản xong, cô chỉnh sửa cho hoàn thiện rồi cất chúng vào ba lô, chỉ để lại một trang đưa cho Tư Mã Khôi xem, trang đó có ghi chép thông tin về cực vực. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi đón lấy, thấy mấy bức hình đều thể hiện biển sâu sóng dữ thét gào, trong đó không thiếu “cá voi thân khổng lồ, thuồng luồng dài vạn trượng”. Tương truyền, khi xưa Vũ Vương chia chín châu, thăm dò bốn cực, đo đạc tỉ mỉ hình thế của đồi núi sông suối, mới chặn được nước chảy tự do về phía đông, hướng nước đến đại dương theo một con kênh hẹp ở núi Long Môn dọc bờ Hoàng Hà, còn đại dương đó cụ thể đó là Đông Hải hay Nam Hải thì không tài liệu nào có thể khảo chứng, chỉ biết nơi dẫn nước lũ vào gọi là Vũ khư(4) . Có lẽ, “không động” nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái đất chính là Vũ khư, có điều chuyện này họ cũng không thể kiểm chứng, mà chỉ đoán mò theo cảm tính cá nhân mà thôi. Tư Mã Khôỉ biết mấy hình vẽ này rất bất thường, liền bảo Thắng Hương Lân cất cẩn thận, để sau này có lúc cần dùng đến, rồi anh giục mọi người mau chóng rời khỏi đây, quay lại khu vực ven tòa địa cung. Đối diện với cánh cửa đá của thành cổ có một cửa động giống như mộ đạo, vừa cao lại rộng rãi, nhìn sâu vào trong thấy rất âm u lạnh lẽo, khác hẳn với không khí nóng bỏng ngoài bồn địa Turpan dưới sa mạc Gobi.
[4] Vũ khư: tức là dấu cũ của Vũ Vương hay di chỉ Vũ Vương.
Đội khảo cổ bật đèn quặng gắn trước mũ bấc lên, từ từ tiến vào bên trong. Đường hầm hoàn toàn trống trải, hai bên động cũng không hề có vật gì thừa ra. Tư Mã Khôi cảm thấy không khí ở đây có vẻ không ổn, liền nhắc nhở mọi người phải thận trọng hơn nữa, không ai được mạo hiểm xông vào.
Đội trưởng Lưu Giang Hà bắt đầu lạnh gáy: “Chỗ này yên ắng quá, hình như chẳng có người sống hay sao ấy!”
Hải ngọng cười nhạt: “Nếu ở đây bỗng nhiên mọc ra một thằng cha đang nhe nhởn sống mới khiếp, chứ không có người thì đâu có gì lạ; điều kì lạ là ngay cả một xác chết cũng chẳng thấy…”
Lúc này, chùm sáng của đèn quặng trên mũ Tư Mã Khôi chiếu đến một góc tường, ở đó có một cái xác, phần đầu của xác chết đó to một cách bất thường, như thể bị trương phình lên vậy, lớn gấp đôi người bình thường, so với cái đầu thì gương mặt và cái cổ khô quắt trở nên vô cùng nhỏ bé, trông rất đỗi quái dị và đáng sợ.
Đội trưởng Lưu Giang Hà chưa kịp chuẩn bị tinh thần, nên khi nhìn thấy bộ dạng kì quái của cái xác, thì bất giác giật bắn người, lùi lại phía sau, hốt hoảng kêu lên: “Ối! Người chết!”
Dưới ánh đèn quặng, Tư Mã Khôi còn phát hiện thấy sâu bên trong còn rất nhiều thi thể khác, anh cũng thất kinh, vội vàng bịt miệng Lưu Giang Hà thì thầm: “Khép cái miệng một tí, ngộ nhỡ kinh động đến các ngài, thì chúng ta có mà ăn đủ”.
Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi dọa làm đội trưởng liên lạc sợ xanh mặt, vì đến cô nghe mà còn thấy rờn rợn, liền trách móc: “Tư Mã Khôi! Anh đừng dọa người khác nữa, được không hả?”
Tư Mã Khôi nói với Thắng Hương Lân: “Tôi có dọa đâu. Mấy năm nay tôi nhìn thấy rất nhiều người chết, nhưng chưa bao giờ thấy xác chết nào lại quái dị thế này”.
Thắng Hương Lân gật đầu bảo: “Mọi người phải thật thận trọng! Tuyệt đối không được sờ vào mấy xác chết này!”
Thế là cả đội ai nấy đều cẩn thận nhìn trước ngó sau, quan sát trang phục và trang thiết bị tùy thân của những xác chết, thì biết đây chính là đội khảo sát liên hợp Trung Xô mất tích năm 1958, chẳng ngờ lại tìm thấy họ trong tòa thành cổ này, đồng thời tất cả đều gặp nạn mà chết.
Hải ngọng chỉ tay đếm, tất cả có hai mươi hai cái xác, toàn bộ thành viên đội khảo sát đều chết ở đây, bao gồm cả bóng ma trong tấm hình. Tình trạng khi chết của đội khảo sát rất quái dị, khoảng cách giữa các xác chết không xa lắm. Gần đó có một tấm bia cũ kỹ loang lổ dựa vào tường, cao tầm đầu người, hình thù giống khuôn mặt người, nhưng chỉ có hình khối, không khắc rõ đường nét ngũ quan, chỉ có dưới chân bia là chạm trổ cái miệng lớn đen ngòm ngòm, đang há rộng ngoác nuốt một con quái xà.
Tư Mã Khôi soi đèn quặng vào tấm bia “nuốt rắn” trong địa cung, bỗng thấy gai lạnh cột sống. Anh nghĩ dường như khoảnh khắc đội khảo sát chạm vào tấm bia này, thì đột nhiên họ đều gặp phải bất trắc, không một ai thoát thân. Tuy Tư Mã Khôi biết khu vực quanh đây chắc chắn đầy rẫy hiểm nguy rình rập, nhưng việc đội khảo sát mất tích năm 1958 là việc rất quan trọng, nên anh không thể qua loa cho xong chuyện, đành lấy hết can đảm tiếp tục xem xét. Anh dặn ba người còn lại, trước khi anh cho phép, không ai được tự tiện tiếp cận tấm bia nuốt rắn trong địa cung.
Mọi người lục ba lô và túi áo trên của từng thi thể và tìm thấy một số bản đồ, ảnh chụp cùng các vật phẩm khác như sổ tay công tác. Tuy xác chết đã teo quắt nhưng đường nét ngũ quan thì vẫn còn khá rõ, nên Tư Mã Khôi muốn đối chiếu từng thi thể với ảnh chụp để nhận diện họ.
Lúc này, chợt nghe phía sau có tiếng động vọng lại, gân xanh trên trán Tư Mã Khôi giật giật, anh điên tiết hét lên: “Vừa mới dặn không được tiếp cận tấm bia cổ quái kia, thế mà ngoảnh đầu đi một cái đã quên khuấy rồi à?”, nhưng khi anh quay người lại, thì thấy ba thành viên của đội khảo cổ vẫn ở cạnh bên, khiến tim anh như hẫng xuống một nhịp; anh cảm thấy từng sợi tóc của mình đang dựng đứng cả lên: “Phía sau là ai vậy?”, anh bạo gan soi đèn quặng ra sau nhìn kỹ, nhưng ngoài tấm bia đá ra thì không còn vật gì khác. Tư Mã Khôi kinh hãi thốt lên: “Chẳng lẽ cái bia cổ này sống thọ quá nên thành tinh rồi sao?”