Chương 81: Hồi năm: bạch tạng

Mê Tông Chi Quốc

Đăng vào: 12 tháng trước

.



Cái hang động đá vôi này vô cùng nhỏ hẹp, ngay cả xoay chuyển người cũng rất khó khăn, Tư Mã Khôi đột nhiên cảm thấy cái lưỡi trơn nhuồi liếm lên mặt mình, trong bóng tối. Anh không thể phân biệt rốt cục mình đang gặp phải tình cảnh gì, nên đành thu mình lùi lại nửa bước, nhưng vừa lùi lại thì thấy một con vật to lớn cũng nhào theo, bám sát lấy anh.



Khẩu súng thần công của Tư Mã Khôi rơi trên đất. Trong lúc gấp gáp, anh mò lấy cuộn ô bát liên, thứ này chỉ cần gặp gió là bén cháy, rồi ngọn lửa bùng lên, trong phút chốc mọi thứ xung quanh đều bừng sáng. Anh thấy ngay trước mắt là con vật lưỡng cư, thuộc nhóm bò sát đầu cá lưỡi xương, từ đầu đến đuôi dài khoảng ba đến năm mét, thân hình to dẹt, da trơn tuồn tuột, trắng ởn, không có vẩy; ngoại trừ cái lưỡi đỏ au au như máu ra, thì trên thân thể nó không hề nhuốm bất kỳ màu sắc nào khác. Đối với những con vật quanh năm săn mồi trong thế giới không có ánh sáng dưới lòng đất này, thì màu sắc đối với nó hoàn toàn vô nghĩa.



Tư Mã Khôi nhận ra đây là một con cá mái nhà (1) bị bạch tạng, bởi vì trong lưỡi nó có xương, mang nhiều đặc điểm của loài lưỡng cư, đầu cá như có lồi cầu xương chẩm, có khe tai, có xương bàn đạp, xương trụ tai, nhưng chúng vẫn mang những đặc điểm của cá như có vết tích nắp mang trên sọ, có lỗ mũi ngoài cạnh hàm như cá phổi có vảy trên đuôi. Thế nên chúng mới có tên là cá mái nhà. Loài này quanh năm săn mồi trong hang động đá vôi âm u lạnh lẽo, thức ăn chủ yếu của chúng là các loài cá sinh sống dưới sông ngầm, đồng thời nó còn ăn cả thịt thối và tử thi. Lúc trước, vật liếm láp đầu tử thi của phân đội khoan thăm dò trong địa cốc, rất có khả năng cũng là sinh vật thuộc loài này. Những sinh vật bị bạch tạng sống dưới lòng đất đa số đều rất sợ lửa và lẩn tránh ánh sáng, nên chỉ cần mang theo đủ đèn nến thì chúng sẽ không dám lại gần.



(1) Cá mái nhà: tên khoa học là Ichthyostega, là một loài lưỡng cư 4 chân có xương sống trên cạn đầu tiên xuất hiện trên Trái đất, sống ở cuối kỷ Devon (khoảng 374 – 359 triệu năm trước), một trong những ghi chép hóa thạch đầu tiên của Ichthvostega nó có phổi và tứ chi, giúp nó di chuyển qua vùng nước nông trong đầm lầy (ảnh minh họa)



Lúc hội Tư Mã Khôi còn đứng trên bệ đất, họ đều bị tử khí giống như màn sương đen xông hun khắp người, giờ cái mùi hôi thối của xác rữa ấy vẫn còn chưa bay hơi hết. Con bò sát đầu cá nấp trong khe đá, bị mùi khí hôi thối này hấp dẫn, nên mới đột ngột xuất hiện. Nó bị ngọn lửa phát ra từ cuộn ô bát liên thiêu cháy thì vừa kinh sợ lại vừa tức giận, trong khi khoảng cách giữa hai vách trong động đá vôi lại rất hẹp khiến nó không thể xoay chuyển thân hình to lớn, nên nó chỉ biết xông thẳng về phía trước một cách điên cuồng.



Tư Mã Khôi có muốn cản cũng không cản được, muốn tránh cũng không tránh được, đành lui hai ba bước, thì bị chi trước của con bò sát đầu cá giữ chặt, cuộn ô bát liên mới cháy được một nửa cũng rơi xuống đất, anh cảm thấy mình sắp ngạt thở đến nơi, lòng nóng như lửa đốt: “Nếu bị cái thứ này giẫm lên người, thì chắc mình sẽ sùi cả bọt mép chứ chả chơi, đến lúc đó không khéo đến ruột cũng phải phọt ra khỏi mồm mất”.



Giữa thời điểm nguy cấp đó, Hải ngọng ở phía sau phát hiện thấy tình cảnh nguy khốn của Tư Mã Khôi. Anh rút dao săn dốc hết sức đâm mạnh về phía trước, vừa vặn thọc đúng vào miệng con bò sát đầu cá, ngập đến tận cán. Anh lại tiếp tục ngoáy mạnh chuôi dao mấy cái rồi rạch một đường. Con bò sát đầu cá bị rạch từ đầu đến lưng chỉ còn biết nằm vật ra phơi cái bụng trắng ởn đổ rạp xuống đất, bốn chân co giật liên hồi trước khi chết hẳn.



Hải ngọng lôi Tư Mã Khôi ra khỏi cái xác con bò sát đầu cá, thì thấy trong ánh lửa lập lòe sắp lụi tắt của cuộn “ô bát liên”, ở nơi sâu trong động đá vôi, thò ra một khuôn mặt vẫn còn dính đầy vệt máu. Đó chính là khuôn mặt của gã kỹ sư Điền Khắc Cường vừa bị Hải ngọng vặn gãy cổ lúc trước.



Tư Mã Khôi vừa trông thấy kẻ đó thì lập tức nổi giận đến nỗi gân xanh nổi cả lên mặt, anh nhặt khẩu thần công đánh rơi dưới đất lên, bắn “pằng” một tiếng. Đúng lúc đó cuộn “ô bát liên” cũng vừa vặn tắt ngấm, trong bóng tối chỉ thấy tia lửa đạn bay vèo vèo, trước mắt trống không, chỉ còn sót lại vách đá vôi màu trắng sữa, còn bóng dáng gã Điền Khắc Cường đã biến mất dạng từ lúc nào. Hai người tức đỏ mắt, vác súng dồn đuổi theo, nhưng nơi sâu trong động đá vôi giống như một mê cung thiên nhiên, bốn bề đều thông thoáng, các măng đá lấp lánh ánh lân tinh đan cài giao thoa, thêm vào đó nước nhỏ từ các nhũ đá xuống đất tí tách như mưa, lấn át tất cả những âm thanh nhỏ bé khác, nên không thể tìm thấy kẻ đang lẩn trốn giữa mê cung này.



Tư Mã Khôi biết tâm lý gã Điền Khắc Cường rất lệch lạc, quái đản, hắn còn định chết chung với mọi người, may mà cái bệ đá lại mắc kẹt giữa khe động hẹp, nhờ thế cả đội mới thoát nạn. Chẳng ngờ, hắn cũng nhân cơ hội này trốn vào trong động đá vôi, chắc hẳn muốn lẩn vào nơi nào đó để chuẩn bị tìm cơ hội thích hợp tiếp tục ra tay, nên sớm muộn gì hắn cũng phải xuất hiện mà thôi. Bây giờ có tìm hắn cũng vô ích, hơn nữa anh lại canh cánh bên lòng về sự an toàn của giáo sư Nông địa cầu, nên đành phải quay lại không truy đuổi hắn nữa.



Lúc này, Thắng Hương Lân và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng đang khiêng giáo sư đi đến. Tư Mã Khôi thấy chỗ này quá chật hẹp, gò bó, rất khó đối phó khi bị công kích. Anh dùng dao khoét lấy óc con bò sát đầu cá đổ vào bình nước, sau đó dẫn mọi người tiếp tục lần mò tiến về phía trước. Những hang động đá vôi như mạng nhện này phân bố dày đặc ở phần đáy địa máng, hệ thống huyệt động tạo thành kết cấu giao thoa lập thể, âm u thần bí, đường đi lúc rộng lúc hẹp, lúc lên lúc xuống. Đi không bao lâu, cả đội tìm thây một căn phòng lớn được khép kín bởi các bức mành đá vây quanh, không gian sâu hút thoáng đạt.



Mọi người đã kiệt sức muốn chết, chỉ mong được nghỉ chân đôi chút dưới hàng mành đá, nghĩ lại tình cảnh vừa mới trải qua, người nào người nấy vẫn còn tim đập chân run. Cả đội nghỉ ngơi một hồi lâu, đội trưởng Lưu Giang Hà phụ trách xách súng đứng gác ca trực đầu tiên. Hương Lân thấy sắc mặt Tư Mã Khôi và Hải ngọng khó coi, cả hai mắt đỏ au, im lặng không nói gì, lại thấy giáo sư Nông địa cầu hơi thở yếu ớt, mà khổ nỗi lại thiếu thuốc men, nên thực sự không thể nghĩ ra được cách gì cứu chữa cho bác ấy. Tư Mã Khôi lúc này mới nghĩ đến tủy óc của con bò sát đầu cá, mà mình mới khoét được. Lúc anh còn lang thang kiếm sống ở khu Hắc ốc từng nghe một lão sư phụ chở than trên đường sắt kể, mới biết thứ này có tác dụng giữ khí hoàn hồn, là loại dược liệu vô cùng quý hiếm, nên anh bảo Thắng Hương Lân bón cho giáo sư uống, nếu mệnh của ông chưa đến lúc đoạn, nói không chừng vẫn còn có thể cứu sống được.



Thắng Hương Lân không biết Tư Mã Khôi nói thật hay không, nhưng có bệnh thì vái tứ phương. Cơ sự đã đến nước này, cô cũng chỉ biết tin lời anh, thực hiện theo cách anh hướng dẫn, rồi lại dùng khăn mặt hứng lấy chút nước lạnh nhỏ từ khe đá xuống, đắp lên trán giáo sư. Một lúc sau, cô thấy hơi thở của giáo sư cũng dần dần ổn định trở lại, cơn sốt cũng bắt đầu hạ nhiệt, lúc ấy cô mới hơi yên tâm hơn một chút. Thắng Hương Lân biết lần chạm trán với đặc vụ do Nấm mồ xanh cử đến này rất không bình thường, dường như các chiến hữu quân đội cộng sản Miến Điện của Tư Mã Khôi ở nước ngoài cũng bị lâm nạn. Chính bởi vậy, tinh thần của anh mới sa sút nghiêm trọng đến thế. Thấy anh rơi vào trạng thái tuyệt độ, cô chỉ biết lấy lương khô đưa cho Tư Mã Khôi và Hải ngọng rồi khuyên họ dù gì cũng phải ăn một chút trước đã sau đó tính kế lâu dài cũng không muộn.



Tư Mã Khôi cố gắng khắc chế cảm xúc và tinh thần của mình. Anh thấy chuyện của Ngọc Phi Yến cũng không nên giấu giếm Thắng Hương Lân thêm nữa, thế là anh bèn kể hết sự thật cho cô nghe. Cha mẹ Thắng Hương Lân sớm đã qua đời từ lâu, bên cạnh cô không còn bất cứ người thân nào, nên trong lòng cô luôn tồn tại cảm giác cô đơn rất mãnh liệt. Khi nghe Tư Mã Khôi kể đầu đuôi câu chuyện, thì cảm giác hoang mang thẫn thờ, xâm chiếm khắp cơ thể, cô cúi thấp đầu, lặng lẽ gạt nước mắt.




Hải ngọng an ủi: “Hương Lân, đừng khóc nữa, từ nay về sau thằng Khôi và Hải ngọng tôi chính là người thân của cô. Khí phách của hội chúng ta là thà làm gươm gãy còn hơn làm đinh cong, càng giết, cụ nội nhà nó, lại càng mê, món nợ máu này sớm muộn gì cũng phải được trả bằng máu tươi, chúng ta nhất định phải tìm cách báo thù.”



Tư Mã Khôi biết rõ: tình cảnh hiện giờ của cả hội hoàn toàn bị cô lập, không có cứu viện, bắt buộc phải lần ra được manh mối giữa mớ hỗn độn rối như tơ vò này, nếu không, nguy hiểm mà họ phải đối mặt sẽ càng lúc càng lớn. Anh nói với Hải ngọng và Thắng Hương Lân: “Vấn đề then chốn trước mắt là chúng ta căn bản không biết kẻ đầu não của tổ chức Nấm mồ xanh rốt cục là ai, càng không biết bộ mặt thật sự của bóng ma đó.”



Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi nói có vẻ hơi cổ quái, bèn nhẹ giọng hỏi: “Thủ lĩnh Nấm mồ xanh… có giống với gã đặc vụ họ Điền kia không?”



Tư Mã Khôi nói: “Từ đầu đến giờ, tôi mới tiếp xúc với hai thành viên của tổ chức ngầm này, một tên là kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh, còn tên kia chính là gã Điền Khắc Cường mai phục trong phân đội khoan thăm dò, phụ trách giám sát kính viễn vọng Lopnor. Gã kỹ sư đó có lẽ là người sống, tuy bị Hải ngọng vặn gãy cổ, nhưng tôi cảm giác dường như gã chưa chết, còn nguyên nhân vì sao thì đến giờ vẫn là ẩn số. Kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh còn đáng sợ hơn, hắn là người có âm mưu thâm độc, mức độ giảo hoạt và nham hiểm đều vượt xa sức tưởng tượng của chúng ta. Trên người hắn luôn tỏa ra một mùi khí hắc ám khó có thể hình dung cụ thể là gì.



Tôi từng nghi ngờ Nấm mồ xanh là một thành viên ẩn náu trong đội thám hiểm, theo tôi được biết khi đó những người vào hẻm núi Dã Nhân, bất luận sống hay chết, tổng cộng có bảy người, ngoại trừ tôi và Hải ngọng ra, còn có Tuyệt, Ngọc Phi Yến, chuyên gia bộc phá người Liên Xô Ciglovski, Karaweik, Thảo Thượng Phi. Trong bảy người thì có ba người chế dưới hẻm núi, thân phận thật sự của Nấm mồ xanh có khả chính là một trong số những người này, thậm chi có khả năng là người đã chết ngay trước mặt tôi.”



Nhưng sau đó tôi lại thấy phán đoán này có vẻ không đúng lắm bởi vì ngoài bảy thành viên đội thám hiểm thì còn có các thành viên thám hiểm Anh đáp chiếc máy bay tiêm kích vận tải rơi xuống lưng chừng trời giữa khe cốc. Những người này đều bị rắn bay ăn mất xác, tàn dư thi thể cũng bị đám sương mù dày đặc phân hủy hoàn toàn. Tuy lực lượng rơi vào tình trạng thương vong như vậy nhưng không loại trừ khả năng Nấm mồ xanh vẫn lẩn trốn trong khoang máy bay, bởi vì sương mù trong núi Dã Nhân không hề có tác dụng với động vật bò sát máu lạnh. Nấm mồ xanh lại giống như một u hồn, hoàn toàn không có hơi thở của sự sống, bởi thế sương mù và rắn bay chắc không phải là mối nguy hại gì với hắn.”



Hải ngọng không đồng tình với nhận định của Tư Mã Khôi, anh nói: “Cậu trước đây thông minh bao nhiêu thì bây giờ hồ đồ bấy nhiêu; sao cậu không thử nghĩ kỹ xem, sương mù trong hẻm núi lợi hại đến mức nào? Ngay cả thi thể người chết còn bị nó phân hủy, nếu Nấm mồ xanh thực sự không ngại bức bình phong do sương mù hình thành, thì hắn đã tự mình kích nổ quả bom và vào tòa thành Nhện Vàng từ lâu rồi, chứ tội gì mà phải mất công cải tiến máy bay tiêm kích vận tải và cả đội thuộc hạ, rồi lại còn phải lấy cắp da mặt của người chết, phải đợi chờ đến lúc thời tiết chuyển sang khắc nghiệt mang theo bão nhiệt đới mới dám xuất phát?”



Tư Mã Khôi cho rằng, đây chính là điểm quan trọng hé lộ thân phận thật của Nấm mồ xanh. Trong chiếc tiêm kích vận tải bị rơi xuống khe núi, vì sao Nấm mồ xanh phải uy hiếp những thành viên may mắn sống sót của đội thám hiểm kích nổ quả bom địa chấn – thông qua băng ghi âm? Sau khi hẻm núi sụt lở, hắn cũng bất chấp nguy hiểm để lộ thân phận, lợi dụng pháo sáng phát tín hiệu để dẫn mọi người vào trong tòa thành Nhện Vàng, rồi bố trí mìn chống bộ binh (2) ép Tư Mã Khôi phải thay hắn mở cánh cửa mật thất đang bị đóng kín. Tất cả những tình huống này đủ để chứng minh một điều: năng lực của Nấm mồ xanh vô cùng hạn chế, ngay cả việc trèo lên tháp cổ cheo leo hắn cũng khó làm được, cùng lắm cũng chỉ có thể sử dụng đèn tín hiệu, máy ghi âm và lén khởi động kíp nổ. Chính vì vậy mà hắn buộc phải che giấu thân phận và khuôn mặt thật sự của mình. Nếu những bí mật này bị người khác biết được, cũng có nghĩa là hắn để lộ tử huyệt của chính mình.



(2) Mìn chống bộ binh: là loại mìn có phạm vi phát nổ trong vòng 40 mét, thường được gài đặt ở các địa điểm như đầu đường hoặc cầu thang…



Tư Mã Khôi lại nói: “Những bí mật này đều được giấu giếm rất kỹ, chúng ta lại đang bị lún chân vào giữa mê cung động đá vôi ở tầng đáy địa máng, không thể có thêm bất kỳ manh mối nào mới, nên cũng rất khó tìm ra đáp án. Vì thế bây giờ chúng ta bắt buộc phải tìm ra biện pháp xác định rõ phương hướng, rồi sau đó nghĩ cách tiến vào kính viễn vọng Lopnor. Vì tôi đoán bác Nông nói rất chính xác, dưới cực vực nhất định che giấu chân tướng và tất cả ẩn số liên quan đến Nấm mồ xanh, nếu không hắn cũng không cử đặc vụ đến trước đánh lén chúng ta. Trên đường đi, chúng ta cũng phải để ý cẩn thận hơn mới được, thứ nhất là đề phòng bị ám hại, thứ hai là cố gắng bắt sống tên gián điệp, biết đâu có thể khai thác được tin tình báo gì từ miệng hắn.”



Hải ngọng cảm thán: “Nếu ông bác Nông hói không xảy ra sự cố thì hay biết mấy, tớ cảm thấy dường như cái gì ông bác ấy cũng đều biết hết. Tớ nhớ có lần Tuyệt bảo độc tố đỏ là vua của các loại thuốc, bệnh gì cũng có thể chữa khỏi, chẳng phải chỗ bọn mình vẫn còn loại này sao? Mau lấy ra cho ông bác uống hai lọ đi, nói không chừng ông bác uống xong lại hoàn dương cũng nên…”



Ba người còn đang bàn bạc thảo luận chưa xong, thì bỗng nhiên nghe thấy giáo sư Nông ho sặc sụa một hồi, không ngờ ông đã tỉnh khỏi cơn hôn mê, nhưng cơ thể vẫn vô cùng yếu ớt. Ông nhìn trái nhìn phải, lòng không khỏi hoang mang: “Chúng ta đang ở đâu thế này?”. Ba người Tư Mã Khôi thấy ông đã tỉnh, liền lập tức đứng vây quanh, Thắng Hương Lân kể tóm tắt đầu đuôi câu chuyện cho giáo sư nghe.



Giáo sư nghe xong, càng thấy đầu đau như muốn vỡ đôi, ông bảo Hải ngọng đỡ mình ngồi dậy, gắng gượng nói: “Thật không ngờ lại xảy ra tình huống này, đây cũng là do tôi tính toán không chu toàn…”



Tư Mã Khôi bảo: “Vết thương của bác hãy còn đau đừng hao tổn thần kinh làm gì, bác cứ nghỉ ngơi thêm một lát nữa đã!”



Giáo sư Nông chầm chậm lắc đầu: “Cơ thể tôi, tôi rõ hơn ai hết, chỉ e chẳng còn bao thời khắc nữa đâu. Nếu nói sinh ra là một điều ngẫu nhiên, thì chết đi lại là một điều tất nhiên. Tôi đã ngần này tuổi rồi, sống đến ngày hôm nay mới phải “tất nhiên” thì cũng chẳng còn gì phải hối tiếc, cho nên các cô cậu cũng không cần đau buồn thay tôi. Nhưng có một vài điều tôi buộc phải nói với các cô cậu. Người Liên Xô đào kính viễn vọng Lopnor, thông sâu hàng chục ngàn mét xuống lòng Trái Đất….”



Tư Mã Khôi thấy thần trí của giáo sư dường như vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo, miệng ông cứ lặp đi lặp lại nhưng lời đã nói trước đây, anh bèn chặn ngang hỏi: “Bác Nông, chuyện này trước đây bác đã nói rồi, bác có biết Nấm xanh rốt cục là ai không?”



Giáo sư nghe thấy ba chữ Nấm mồ xanh, thì đột nhiên toàn thân vã mô hôi lạnh ra đầm đìa, như thể nhớ ra một việc gì vô cùng đáng sợ, ý thức mơ hồ của ông phút chốc tỉnh táo thêm mấy phần, ông đột ngột nhìn chằm chằm vào Tư Mã Khôi và nói: “Nấm mồ xanh không phải bất kỳ ai.”