Đăng vào: 12 tháng trước
Do đồng hồ và các thiết bị đo thời gian đều bị hỏng, nên mọi người hoàn toàn mất căn cứ đế phán đoán thời gian một cách chuẩn xác, chỉ có thể dựa vào đồng hồ sinh học cơ thể con người để phân tích tình hình. Sau khi nối liên lạc được với bộ chỉ huy, mới biết thời gian chiếc máy bay bị mất tích trên không vực sa mạc chí ít cũng phải kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ. Ilyushin-12 rốt cục đã xảy ra sự cố gì trong quá trình bay? Nó gặp phải vật gì giữa tầng cao muôn trượng ấy? Trong thế giới quan của chủ nghĩa duy vật, không một luận cứ khoa học tuyệt đối nào có thể giải thích hoàn toàn thỏa đáng cho một hiện tượng.
Sự cố hàng không quái dị năm đó, mãi sau này người ta vẫn không thể suy đoán được nguyên nhân thực sự của nó, mà chỉ có thể tạm thời loại trừ nhân tố thời gian. Trong các báo cáo, các nhà khoa học đã đưa ra một dự đoán mang tính khả năng: Năm 1949, có một chiếc máy bay đi từ Trùng Khánh đến Urumqi, bị mất tích trên hành trình bay; khoảng mười năm sau, có người thấy xác nó xuất hiên ở phía đông sa mạc Lopnor, toàn bộ nhân viên và hành khách trên chuyến bay đều chết hết, chiếc máy bay này cũng đột ngột thay đổi lộ trình và bị rơi xuống khu vực mà nó căn bản không thể nào đi qua.
Những sự cố tương tự như vậy còn xảy ra vài lần nữa và chính vì vậy mà các nhà khoa học suy đoán lúc chiếc Ilyushin-12 gặp phải sự cố trên không, cũng là lúc trời trong vạn dặm, đồng thời xuất hiện chuỗi âm thanh giống như tiếng sấm rền, điều đó có nghĩa là dòng không khí nhiễu động đã va chạm vào nhau hình thành các huyệt khí, còn gọi là nhiễu động khí hay nhiễu động trời trong . Nhiễu động khí xuất hiện do các luồng không khí nhiễu động đâm vào nhau tạo nên các vũng xoáy dao động cực lớn. Nó không tồn tại dưới dạng vật chất, cũng không có hình dạng hữu hình, nên không thể nào tiên liệu trước được, các phi hành gia càng không thể dùng mắt thường mà phán đoán sự xuất hiện của nó một cách chính xác được.
Có thể ở trên không vực rộng lớn khoáng đạt, như vùng sa mạc Kumtag, sa mạc Lopnor hay sa mạc Taklamakan, đều tôn tại vùng nhiễu động khí, và các thành viên trên máy bay đều cảm thấy khoảnh khắc mình bị mất ý thức, dường như chỉ kéo dài trong tích tắc ngắn ngủi, nhưng có khả năng cảm nhận đó chỉ là ảo giác, còn trên thực tế, khoảng thời gian ấy đủ để không khí trên cao đẩy chiếc Ilyushin-12 dạt xa đến tận vùng cực tây của sa mạc Kumtag.
Giáo sư Thắng Thiên Viễn có kinh nghiệm rất phong phú về thám hiểm sa mạc, ông là chỉ huy trưởng đội khai quật khảo cổ. Ông nhận định điểm hạ cánh hiện tại cách viền tây nam của sa mạc Lopnor không xa lắm, nhờ vào các thiết bị và bản đồ mang theo, nên vẫn có thể đi bộ đến khu vực dự định và tiếp tục chấp hành nhiệm vụ. Bởi thế, ông hạ lệnh: chỉ những thành viên bị thương và tổ lái ở nguyên vị trí chờ cứu viện, còn lại những thành viên khác vẫn tiếp tục lên đường.
Lãnh đạo cấp trên trả lời điện báo bằng chỉ thị: “Về cơ bản, các đồng chí đánh giá tình hình hiện tại tương đối chính xác, quyền chủ động vẫn nằm trong tay các đông chí, trong sa mạc có rất nhiều khó khăn và nguy hiểm, tổ chức mong các đồng chí tự tìm cách khắc phục”.
Sau khi giáo sư xác nhận mệnh lệnh của cấp trên, ông bố trí cho các thành viên bị thương ở lại đợi, rồi khoác trang thiết bị dẫn đoàn tiến vào sa mạc mênh mông, nhưng khi xuyên qua vùng Đại Sa Bản, họ gặp phải thời tiết khắc nghiệt khiến chuyến hành động này buộc phải dừng lai giữa chừng. Giáo sư Thắng Thiên Viễn cũng không may mắc bệnh nặng ngay trên sa mạc, nên trở về Bắc Kinh không lâu thì qua đời. Chuỗi sự việc đó phải chăng chỉ là sự ngẫu nhiên? Hay là điều tất yếu? Tất cả còn phải xem anh đứng ở góc độ nào để lý giải nó, có thể trong cõi u minh quả thực tồn tại một sức mạnh vô hình đáng sợ nào đó đang muốn ngăn cản con người làm rõ lại quãng quá khứ đã sớm biến mất dưới lớp cát sa mạc hàng ngàn năm về trước.
Còn lão Lưu Hoại Thủy, do bị gãy xương sườn khi chiếc Ilyushin-12 tiếp đất, nên không thể cùng đoàn tiếp tục hành động, bây giờ nghĩ lại vẫn thấy số mình hên vô cùng. Lão nói với Tư Mã Khôi và Hải ngọng: “Xem ra kiếp này lão Lưu tôi không có phước được ngồi máy bay rồi. Từ nay về sau, cho dù có người kề súng vào sau gáy ra lệnh, tôi cũng không dám ngồi lên con chim sắt đó thêm lần nào nữa đâu.”
Lão Lưu Hoại Thủy cũng nhận ra tâm sự của Tư Mã Khôi, bèn nói: “Bát lão gia, tôi thấy hình như nhị vị lão gia rất quan tâm đến chuyện của ông chủ Viễn, giữa các vị có mối giao tình gì à? Nếu thật thế, thì tôi đây cũng vừa hay có một con đường đi được đấy!”
Dưới sự quan tâm của các vị lãnh đạo cấp quốc gia, năm trước ngành khảo cổ đã tổ chức thành công công tác khai quật khu mộ Tiểu Hà. Khu mộ này nằm trong sa mạc Lopnor, cách vùng hạ lưu sông Khổng Tước chừng 60km về phía Nam. Các nhà khảo cổ đã khai quật được một lượng lớn văn vật quý giá, cùng một thi thể phụ nữ từ thời Hán được bảo toàn nguyên vẹn. Phát hiện về xác ướp hai ngàn năm trước đã gây chấn động đến cả thể giới. Các hãng báo lớn như nhật báo Nhân dân, nhật báo Quang Minh, báo Giải phóng quân… đều giật tít chữ thật to ngay trên trang nhất, cùng với bức ảnh chụp xác ướp.
Yì thế ngay từ khi khai xuân năm nay, người ta lại tiếp tục phóng thích hàng loạt thành phần có quyền lực trong giới học thuật phản động, đồng thời tạm thời phục hồi chức vị cho họ, chỉ có điều tội danh trước đây vẫn không được xóa bỏ, một trong số họ có nhà khảo cổ kiêm địa chất học Tống Tuyển Nông. Trước đây, giáo sư Tống Tuyển Nông là đồng nghiệp với giáo sư Thắng Thiên Viễn, ngoài đời hai người còn là bạn rất thân, nhưng giờ đây không có ai gọi giáo sư Tống Tuyển Nông theo hàm hiệu học vị, mà vì ông bị hói đầu, nên mọi người đều gọi ông bằng biệt hiệu bác Nông địa cầu.
Bên mình giáo sư Thắng Thiên Viễn có một cuốn sổ công tác, luôn được cất giữ bí mật, không cho ai biết, bên trong ghi chép toàn bộ các sự kiện trọng yếu trong cuộc đời hoạt động thám hiểm và khảo cổ của mình. Trước lúc nhắm mắt xuôi tay, giáo sư đã mang cuốn sổ được niêm phong kín trong túi hồ sơ đặt trên giường bệnh, đưa cho Lưu Hoại Thủy, và bảo lão hãy trao nó lại cho ông Nông địa cầu, đồng thời giáo sư còn dặn dò lão tuyệt đối không được mở ra xem trộm.
Lúc đó, bác Nông địa cầu lại đi công tác ở Cam Túc, khi trở về thì người bạn thân đã từ giã cõi đời. Sau này, Lưu Hoại Thủy đem cuốn sổ ghi chép giao tận tay bác Nông địa cầu, lúc giáo sư giở trang đầu tiên, lão có liếc mắt nhìn trộm, chỉ thấy bên trong viết bốn chữ “Yêu nhĩ Lâu Lan”, cũng không rõ bốn chữ đó ngầm ám chỉ điều gì, chỉ thấy giáo sư Nông địa cầu biểu lộ nét mặt rất đỗi kinh ngạc: “Cái ông Viễn này, đúng là gan to coi trời bằng vung…”, nói đoạn ông vội vàng lướt mắt từ đầu đến cuối một lượt, đọc xong liền châm lửa xé từng trang ra đốt ngay trước mặt lão, cả cuốn sổ cháy thành tro bụi.
Sau này, vì tò mò nên Lưu Hoại Thủy có vài lần dò hỏi về nội dung cuốn sổ, nhưng bác Nông địa cầu miệng kín như bưng, không tiết lộ nửa lời, đã thế lần nào giáo sư cũng cảnh cáo lão: “Việc này thuộc phạm trù cần bảo mật tuyệt đối, những việc không nên hỏi thì tốt nhất anh chớ hỏi nhiều, những việc không nên nhìn thì hãy tránh nhìn, càng biêt nhiều thì anh càng gặp nhiều nguy hiểm hơn thôi.”
Lưu Hoại Thủy không muốn chuốc họa vào thân, nên đành dập tắt ý định đó, từ đó trở đi, lão không tìm hiểu sâu thêm về việc này nữa.
Sau khi đại Cách mạng Văn hóa bùng nổ, bác Nông địa cầu cũng không thể thoát tội, giáo sư bị đẩy xuống vùng nông thôn tham gia cải tạo lao động, mãi đến mùa hè năm nay mới được trả về và bố trí vào một đội trắc họa để chủ trì công việc. Nhiệm vụ chủ yếu của phân đội này là tìm kiếm các quặng vàng ở Tân Cương, suốt dải chiều dài từ cực tây sa mạc Lopnor đến vùng Đại Sa Bản trên sa mạc Kumtag, trước đây từng là sông Sa Bản huyền bí. Trong lịch sử có hai dòng Sa Bản chảy ở hai đầu nam bắc, một dòng quấn quanh thành cổ Lâu Lan, ven sông là những hồ muối đan cài hình xương cá và địa mạo Nhã Đan(1) với đủ hình thù kỳ quái, còn dòng thứ hai bắt nguồn từ núi A-erh-chin, nó là dòng sông ngầm đi xuyên qua núi cát. Trong nhiều tài liệu địa lý miêu tả mạch núi thế sông, các học giả cho rằng sông Sa Bản ở hai đầu nam bắc là một dòng sông chảy thông suốt, nhưng trên thực tế, đó là hai dòng sông tách biệt không hề liên quan với nhau.
Do điều kiện thời tiết khắc nghiệt, hạn hán ngày càng trở nên trầm trọng, nên dòng sông ngầm cũng dần dần bị dòng cát cuồng loạn chạy trên sa mạc nuốt chửng. Theo các ghi chép địa lý cổ, lòng chảo sông Sa Bản lắng đọng bụi vàng, dưới lòng đất thậm chí còn có một mỏ vàng rất lớn, nhưng nơi này lại thuộc khu vực trắng trên bản đồ, một năm bốn mùa gió cát lũng đoạn không dứt. Do điều kiện vô cùng khắc nghiệt, vì thế có muốn tiến hành công tác trắc họa từ trên không cũng không được, mà chỉ những chuyên gia tinh thông địa lý thời tiền Tần thì mới có thể dẫn đội quân trắc họa tìm kiếm mỏ vàng đã bỗng dưng biến mất từ nhiều năm trước. Trước mắt, mọi người phải xác định được vị trí tương đối, xác định các thông số đo lường có liên quan như kinh độ, vĩ độ, địa hình cụ thể, độ cao so với mực nước biển của sông Sa Bản; sau đó các phân đội khác nhau như địa lý thăm dò, vật lý thăm dò, khoan thăm dò mới có thể đi sâu tìm hiểu các thông số chi tiết.
(1) Địa mạo Nhã Đan: một hình thái điển hình của địa mạo phong thực, bề mặt đất đá bị gió bào mòn.
Giáo sư Nông địa cầu là chuyên gia có kiến thức rât uyên bác và rộng lớn trên nhiều lĩnh vực. Trước Cách mạng Văn hóa, giáo sư kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng khác nhau, ông không chỉ am hiểu lịch sử Tây Vực cổ, mà còn là chuyên gia về lĩnh vực địa chất, sinh vật và hoa học. Tuy nhiên phần lớn hiểu biết đó chỉ dừng lại ở nhưng nghiên cứu trên sách vở, nói suông thì còn được chứ khi phải thực chiến trên trận địa, bước chân vào sa mạc Gobi giữa gió cát vần vũ, thì ông cũng cảm thấy ớn người. Nghe nói, phân đội mà giáo sư Thắng Thiên Viễn phụ trách năm 1963, cũng từng dự định tiến vào vùng ven sông Sa Bản, bây giờ giáo sư Nông địa cầu phải tiếp tục thực hiện nốt nhiệm vụ vẫn chưa hoàn thành khi đó.
Trước giải phóng, lão Lưu Hoại Thủy từng nhiều lần vào sâu trong đại sa mạc Hồi Cương, giúp các nhà thám hiểm Anh tìm kiếm thành cổ Viên Sa(2), làm bao nhiêu chuyện thất đức, thậm chí còn bán đứng bảo vật quốc gia, sau khi bác Nông biết chuyện, liền bảo lão làm trợ thủ cho mình, cùng ông đến sa mạc Lopnor.
Tuy hiện giờ lão Lưu Hoại Thủy cũng chỉ nhận được đãi ngộ của nhân viên tạp vụ, nhưng với lão, lương lậu bao nhiêu có quan trọng gì đâu, lão cũng không kỳ vọng vào hai mươi mấy đồng bèo bọt ấy. Dưới khẩu hiệu: “công nông binh lãnh đạo tất cả”, thì cái mác giai cấp công nhân vô tình trở thành chiếc ô che chắn vô cùng an toàn cho lão, giúp lão nẫng được không ít món hời. Lão từng đổi được một chiếc bình gốm hoa quý giá thời Nguyên Thanh bằng một xe ba bánh rau cải thảo, ban đêm ngủ mơ vẫn còn thấy sướng, thế thì lão tội gì mà lao đầu vào sa mạc Gobi chịu khổ.
(2) Thành cổ Viên Sa: Là tòa thành cổ có niên đại sớm nhât được phát hiện ở Tân Cương. Nó được xây dựng cách đây hơn hai ngàn năm, ở thôn Đại Hà Diên, huyện Vu Điền.
Thông qua một số kênh nội bộ, lão biết được một tin trong thời gian cải tạo lao động, bác Nông địa cầu vẫn không ngừng viết báo cáo gửi cho cấp trên, mà nguyên nhân khiến giáo sư viết đơn đề nghị cấp trên cho phép dẫn đoàn tiến vào sa mạc Gobi thì lại có liên quan đến cuốn sổ công tác của giáo sư Thắng Thiên Viễn, mà ông từng đọc trước đây. Bởi vậy, lão Lưu Hoại Thủy phỏng đoán lần hành động này tuyệt đối không chỉ đơn giản là trắc họa sông Sa Bận, nhưng nội tình cụ thể thế nào thì lão chưa dò hỏi sâu sát được.
Có điều, lão cũng không dám đắc tội quá đáng với giáo sư Nông địa cầu. Vì trong thời điểm này, ai cũng sợ xanh mặt nếu bị vạch trần hoặc kiểm điểm, ngộ nhỡ giáo sư lại khai tuốt tuột mọi hành vi phản quốc từ trước đến giờ của lão, thì cho dù không đủ chứng cứ cũng vẫn khiến lão vào nhà đá như chơi, thậm chí nếu hành vi đó còn hệ lụy đến các vấn đề khác, thì có khi đến mười cái đầu cũng phải chuyển nhà ấy chứ. Bởi thế nên lão cứ kiếm cớ lần lữa hết ngày này sang ngày khác, dền dứ mãi không chịu lên đường.
Hôm nay, lão gặp được Tư Mã Khôi liền thanh minh minh đã có tuổi, chỉ sợ cái thân già này nếu phải chui vào sa mạc thì chắc chẳng có ngày lê nổi chân ra, trong khi đó Tư Mã Khôi lại là chân truyền Kim Điển, tinh thông cổ thuật tướng vật, có thể đảm nhiệm phần công việc này. Nên chỉ cần là người mà lão đứng ra đảm bảo, thì giáo sư Nông chắc chắn sẽ lác mắt kinh ngạc. Vả lại, theo quy định quốc gia, mỗi ngày đi công tác ở bên ngoài đều được lĩnh một đồng tiền trợ cấp, như thế một tháng đã có ba mươi đồng, cộng thêm với lương hàng tháng hai mươi tám đồng, số tiền đó đối với người bình thường thì cũng không phải ít ỏi gì. Lão Lưu Hoại Thủy còn hứa hẹn, nếu Tư Mã Khôi và Hải ngọng chấp nhận đi thay lão chuyến này, thì cá nhân lão sẽ tình nguyện trả thêm ba trăm đồng nữa để biểu thị lòng cảm ơn.
Tư Mã Khôi không thể xác định trong cuốn sổ ghi chép – mà giáo sư Thắng Thiên Viễn để lại, có manh mối gì liên quan đến Nấm mồ xanh hay không, nhưng bây giờ người duy nhất có thể lý giải nội tình, e rằng chỉ có một mình giáo sư Nông mà thôi. Thế nhưng theo lời lão Thủy ma trống thì do việc này can hệ đến một số điều lệnh bảo mật, nên chắc chắn rất khó moi được thông tin từ cái miệng kín như bưng của giáo sư địa cầu, xem ra việc này đúng là dục tốc bất đạt.
Vả lại, Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng cảm thấy tiếp tục sống những ngày lang thang tạm bợ ở khu Hắc Ốc cũng chẳng có ý nghĩa gì, nên nhân cơ hội này có thể ngắm nhìn phong cảnh đại sa mạc Gobi cũng không phải ý tồi. Tư Mã Khôi cũng đọc vị được lão Thủy ma trống dường như rất nóng lòng muốn tìm người thay mình chịu trận chứ không lão đã chẳng chìa ngay tiền ra cửa miệng, trước mắt đúng là cơ hội thấy gió thì phải bẻ măng, lúc này không đá đít lão cáo già ấy một cú, thì còn đợi lúc nào nữa? Thế là anh bèn ra điều kiện: “Lưu sư phụ ạ, tôi cũng niệm tình hai gia đình chúng ta tòng qua lại thân thiết bao nhiêu đời nay, nên sao có thể ngồi yên không giúp ông bác việc này được? Nhưng cái giá khi nãy ông bác vừa đưa ra không được thỏa đáng lắm.
Bởi vì lời ngoài ý trong của ông bác, tôi đọc vị được hết rồi. Cái chuyến công tác mà ông bác vừa nói đấy, chỉ cần sơ sẩy một chút thôi là cái mạng nhỏ của tôi sẽ chu du đến Quỷ Môn Quan ngay tức khắc, và nếu thế thì món tiền ba trăm bạc của ông bác cũng chẳng đến được tay bọn tôi. Bây giờ thế này, tôi và Hải ngọng mỗi người ba trăm đồng, ngoài ra, còn phải cộng thêm chiếc áo khoác da chuột bách niên mà tôi vừa bán cho ông bác lúc nãy. Nấu ông bác không chấp nhận coi như tôi chưa nói gì, vì dù sao thì chỗ tôi chẳng bao giờ hét hai giá, thiếu một đồng cũng không xong. Thời thế bây giờ tìm ếch ba chân mới khó, chứ có cả đống hai chân ngồi đầy đường mặc cho ông bác tha hồ lựa chọn, bác nghĩa thấy ai vừa mắt thì cứ việc đến mà thương lượng với họ.”
Lão Lưu Hoại Thủy nghe xong thì răng hàm nghiến vào nhau ken két, nói: “Bát lão gia, phen này đến lượt tôi bái phục lão gia sát đất, chiêu lột da ngược này của lão gia cũng độc thật đấy!”
Tư Mã Khôi đáp lời: “Lưu sư phụ đánh giá tôi cao quá rồi, vả lại, cái từ lột da ngược nghe cũng không được nhã nhặn cho lắm. Tôi gọi chiêu này là vỏ quýt dày có móng tay nhọn, cao nhân hữu tắc cao nhân trị. Tôi và bác sau này còn phải học hỏi nhau nhiều, chúng ta cùng cố gắng tiến bộ nhé!”
Hải ngọng ngồi một bên mặt mày hớn ha hớn hở nói: “Lưu sư phụ, chúng tôi đâu nỡ ép uổng người già? Nhưng thời thế này, tình cảm đáng giá bao nhiêu tiền một cân chứ? Đến tận hôm nay, Hải ngọng tôi mới biết, mẹ nhà nó, thế nào gọi là cháy nhà hôi của, nên được hay không thì ông bác cứ nói một câu cho thật thống khoái xem nào. Mấy cái đĩa xào này coi như tôi mời ông bác. Chúng ta mua bán không thành thì vẫn còn tình cảm, coi như kêt bạn với nhau ấy mà. Nếu bây giờ ông bác có việc gấp phải đi thì cứ mau đi đi, đợi sau khi ông bác đi khuất, chúng tôi sẽ tìm một cái bốt điện thoại nào đấy, đến lúc đó, tôi sẽ nhấc điện thoại lên và nói: “À lố, có phải sở công an đó không? Tôi muốn báo án, có một phần tử xấu tên là Lưu Hoài Thủy.
Người này nhân cơ hội bài trừ tứ cựu để hành nghề đánh trống con trên phố, lấy một xe ba bánh cải thảo để đối lấy văn vật. Rõ ràng là hắn ta ôm nỗi bất bình với chế độ chủ nghĩa xã hội, mầm mống phản động quá rõ rệt, lại còn trà trộn vào đội khảo cổ làm công nhân thời vụ. Nếu như các anh không tin, thì có thể bắt hẳn trước để thẩm vấn, sau đó vào nhà hắn lục soát. Nếu quả thực có việc như vậy, thì nên chém cứ chém, nên bắn cứ bắn, không cần phải nhẹ tay với hắn làm gì, nguyên tắc làm việc của các đồng chí chẳng phải tuyệt đối không xử oan người tốt, cũng tuyệt đối không được lọt kẻ xấu hay sao?”
Lão Lưu Hoại Thủy vừa nghe đã sợ tái mặt, không dám ho he thêm câu gì; hơn thế nữa, lão cũng không thể tìm đâu ra người nào phù hợp với nhiệm vụ lần này hơn Tư Mã Khôi, nếu thay bằng người khác, có khi ngay cả cửa giáo sư Nông cũng không qua nổi. Vì thế lão đành nén đau thương chấp nhận điều kiện của Tư Mã Khôi, rồi đích thân dẫn hai người đi tìm giáo sư Nông địa cầu.
Giáo sư Nông là người có gương mặt tròn trịa, toát lên vẻ hiền từ, cộng thêm cái đầu hói quá nửa, trông không khác gì quả địa cầu mô hình. Ông đeo cặp kích cận, gọng bị gãy được chắp nối bằng vài vòng dây chun quấn qua loa. Ông vừa bị đấu tố ở Đại học Bắc Kinh, nhà cửa vẫn còn niêm phong, nhưng vừa về đến đơn vị đã vội bắt tay vào công việc không dám chậm trễ. Giáo sư đang bận bịu sắp xếp các vật dụng cần thiết cho chuyến đi sắp tới, thấy mọi người đến, ông vội ra mở cửa chào đón rồi nghe lão Lưu Hoại Thủy giới thiệu sơ qua tình hình.
Lưu Hoại Thủy mạo nhận Tư Mã Khôi và Hải ngọng là đồ đệ của mình, lúc này sư phụ đang ra sức ca tụng học trò, ngoại trừ giới thiệu hai người đã được học qua những kỹ nghệ gì, đặc biệt còn gán thêm một loạt phẩm chất đạo đức cao đẹp cho họ, nào là quang minh chính trực, thật thà ngay thẳng, nào là cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, trọng lễ hiểu nghĩa, không vụ lợi…
Giáo sư Nông địa cầu nhìn Tư Mã Khôi và Hải ngọng một lượt từ đầu đến chân như thầm đánh giá. ỏng tỏ ra hoài nghi hỏi lại: “Cổ lý tướng vật là một lĩnh vực vô cùng uyên thâm, về tác dụng thực tế, nó còn hữu dụng hơn sơn kinh thủy pháp rất nhiều, chỉ có điều lai lịch của nó thật ít giả nhiều, tôi chưa bao giờ tiếp xúc với môn này, vì thế cậu nói các cậu am hiểu, tôi cũng không có cách gì phán đoán thật giả. Nhưng tôi từng nghiên cứu vê đáy biển giang hồ sử dụng trong xã hội cũ: người xưa có nói Kim Điến là tương, lục lâm là tướng, tương tướng gọi chung là văn võ, hai thứ này không bao giờ tách bạch hẳn ra. Cậu đã tự nhận mình là chân truyền của Văn Võ tiên sinh, thì nhất định rất thông thạo đáy biển, vậy trước tiên tôi hỏi cậu, thế nào là giang hồ? Tính danh của giang hồ tự hiệu là gì?
Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Đúng là nhìn bề ngoài không thể ngờ lão hói này lại hiểu về “Mắt đáy biển giang hồ” đến vậy, thì ra trong giới quyền lực học thuật phản động bị quần chúng cách mạng lật đổ, cũng có vài nhân vật ra hồn đấy chứ”. Nửa bộ Kinh Kim Cương – Ngũ Hồ Tứ Hải này, Tư Mã Khôi có ngủ mơ mà đọc ngược từ dưới lên thì cũng vẫn trôi chảy như thường, thể là anh bèn ứng đáp: “Nhãn là giang, khẩu là hồ, họ Giang tên Long tự Nguyên Trực là dòng chính, họ Hồ tên Trường tự Ưu Long là dòng nhánh”.
Bác Nông địa cầu lại hỏi tiếp: “Họ Nhật Nguyệt tên là gì?”
Tư Mã Khôi lại đáp: “Họ Nhật tên Tôn, tự Khai là bậc tử chân, họ Nguyệt tên Đường, tự Vệ là bậc đại hiền”.
Anh nghe thì biết giáo sư dường như biết không nhiều lắm, trong lòng thầm nghĩ: không cần đợi ông bác hỏi, hôm nay tôi sẽ cho nhà ông mở rộng tầm mắt, để biết thế nào gọi là “đáy biển” đích thực. Nghĩ vậy, anh bèn đọc tuột ra một lèo: “Giang hồ nhật nguyệt là cửu châu, bát đại thần tiên vượt cửu châu, trong cửu châu đều là anh em huynh đệ, trên dưới tam đẳng đều là chốn bạn bè, Nam Kinh chìm tôi không sợ, Bắc Kinh hạn tôi không lo, anh có Kim Ngân chồng Bắc Đẩu, tôi có ngón nghề vượt xuân thu, ban ngày không lo quân tử mượn, ban đêm không sợ tiểu nhân dòm, ngón nghề của tôi độc chiếm ngao đầu lưỡng đóa kim hoa, tam nguyên cập đệ, tứ quý phát tài ngũ tử đăng khoa, lục họp đồng xuân, thất tinh củng chiếu, bát bảo hoàng lương tản, cửu căn kim ngọc đới, thập toàn phú quý. Muốn hỏi ngón nghề này nặng bao nhiêu, hai cân mười ba lượng năm tiền bốn phân rưỡi.. .”(3)
(3) Hai cân mười ba lượng năm tiền bốn phân rưỡi: trong đáy biển giang hồ, số hai tượng trưng cho nhật nguyệt hoặc đất trời; mười ba là chỉ mười ba tỉnh của Trung Quốc, bao gồm phía nam bảy tỉnh, phía bắc sáu tỉnh; năm tiền bốn phân rưỡi chỉ trong bốn biển năm hồ chỉ lấy một nửa.
Giáo sư Nông địa cầu xưa nay là người có con mắt rất tinh tường, nhìn người khá chuẩn, thấy mấy câu trong nghề không làm khó được Tư Mã Khôi, bèn hỏi tiếp vài câu về phong vật trong đại sa mạc cổ Tây Vực.
Tổ tiên Tư Mã Khôi từng tòng quân dẹp loạn Tân Cương thời mạt Thanh, lập công hiển hách với triều đình; thêm nữa, anh cũng nghe Văn Võ tiên sinh nói qua không ít những chuyện gia môn thời cũ, nên ứng đáp tự nhiên, làu làu như cháo chảy.
Giáo sư Nông địa cầu vui mừng hớn hở ra mặt nói: “Cậu quỷ ma lanh này khá lắm, tôi nhận!”, rồi quay sang hỏi Hải ngọng: “Còn cậu cao to lực lưỡng này… có bản lĩnh hoặc sở trường gì không? Tôi thấy cậu có khí chất anh dũng, cơ thể lại cường tráng hơn người, chẳng khác nào lạc đà trên sa mạc, đúng là nòi cầm súng làm lính đây, nếu cõng thiết bị máy móc cho đội khảo cổ chúng ta, chắc chắn không thành vấn đề đâu nhỉ, thôi thì thu nhận cả hai cậu nhé!”.
Từ khi bắt đầu bước chân vào cửa, Hải ngọng đã ngang nhiên kéo ghế ra ngồi, nhìn thấy trên bàn có thuốc lá anh cũng không khách sáo, móc luôn một điếu ra châm lửa hút. Lúc này nghe thấy bác Nông địa cầu nói vậy thì lấy làm không hài lòng lắm, anh vừa phì phèo nhả một ngụm khói thuốc, vừa nói: “Sở trường hả? Còn phải xem lão đồng chí bác muốn chỉ về mặt nào đã, tôi thấy cơ thể cao to không thể coi là sở trường được, rốt cục nó chỉ là thứ do cha mẹ sinh ra, chẳng có gì đáng gọi là kỹ thuật. Nếu nói về sở trường mang tính kỹ thuật, thì tôi đây quả thật cũng có vài món, có điều bình thường không muốn tiêt lộ ra ngoài, ví dụ như chuyện hút thuốc này chẳng hạn, Hải ngọng tôi rất khoái hút thuốc, từ loại thuốc rẻ tiên hai xu một bao cho đến loại thuốc Bạch Kim Long nổi tiếng Nam Dương, chưa loại nào tôi không hút qua.
Hơn nữa, tôi có thể nhả liền tám ngụm khói thành hình tròn, luồn vòng tròn nhỏ vào trong vòng tròn lớn. Ngoài ra, tôi còn luyện được cả tuyệt kỹ châm thuốc, bất luận điều kiện hoàn cảnh thế nào dù mưa rơi hay đạn xả, đi ngựa, đất rung hay núi lở, vượt núi hay xuyên rừng, đều không hề ảnh hưởng đến mức độ hoàn hảo của tuyệt kỹ, tôi có thể hút thuốc bất kỳ lúc nào nơi nào, cũng có thể châm thuốc bất kỳ lúc nào nơi nào, mà từ trước đến giờ chỉ cần một que diêm châm thuốc, bất kể mưa to gió lớn đến đâu, chỉ cần châm là cháy, tuyệt đối không bao giờ phải sử dụng đến que thứ hai. Ông bác cảm thấy món sở trường này của tôi thế nào hả?”
Giáo sư Nông địa cầu không thích những bậc hậu sinh thật thà như đếm, gọi dạ bảo vâng, vì nếu một người chỉ biết ở nhà vâng lời mẹ cha, đi học vâng lời thầy cô, ra công tác vâng lời lãnh đạo, thì sẽ không biết cách ứng phó linh hoạt, không có chủ kiến riêng, mất tính sáng tạo và sự dũng cảm dám độc lập đối đầu với khó khăn. Xã hội phức tạp như thế, ai nói tiền bối, lãnh đạo, thầy cô lúc nào cũng chính xác tuyệt đối? Làm sao có thể kỳ vọng những loại người này sẽ tạo ra thành tựu kỳ diệu gì cho tương lai? Bởi thế ông không hề ghét bỏ những ngôn từ cử chỉ ngạo mạn của Tư Mã Khôi và Hải ngọng, ngược lại còn đánh giá họ rất cao.
Giáo sư nói ngay trước mặt Lưu sư phụ: “Hai thằng ranh lêu lổng này chắc không dễ quản đâu, nhưng tôi thu nhận hết, bây giờ cái chúng ta thiểu thốn nhất chính là nhân lực, chỉ cần họ nhiệt huyết với công việc khảo cổ, theo đuổi lịch sử, thì việc điều tra lí lịch và tiếp nhận đều không thành vấn đề gì cả”.
Lưu Hoại Thủy tìm được Tư Mã Khôi và Hải ngọng đi thay mình, thì coi như đã bàn giao xong nhiệm vụ, lão như thể trút bỏ được gánh nặng, vội vàng quay người cáo từ. Giáo sư tiễn lão Thủy ma trống một quãng, khi trở về phòng liền trịnh trọng căn dặn hai người: “Từ hôm nay trở đi tôi sẽ là lãnh đạo trực tiếp của hai cậu, các cậu là trợ thủ và cũng là học trò của tôi, nhất định phải nghe lời tôi phục tùng theo sự sắp xếp của tôi, cố gắng học hỏi các kiến thức nghiệp vụ, đã hiểu chưa?”
Hải ngọng trợn mắt nói: “Ái chà! Vừa mới đây thôi mà đã lên mặt rồi đấy à? Ông bác mắc bệnh chủ nghĩa quan liêu hay chứng nghiện làm lãnh đạo thế hả? Có điều từ nay bọn tôi là người có tổ chức, có lãnh đạo hẳn hoi, thì đương nhiên ăn phải có quy củ, nói cũng phải có quy củ, làm việc càng phải có quy củ hơn, có đúng thế không? Nhưng tôi nói thế này bác Nông ạ, nghe bên ngoài đồn đại, người ta bảo ông bác là cựu cán bộ hành chính bậc mười ba, tuy bị chụp mũ và chịu mấy lần đấu tố, nhưng sau khi trở về thì vẫn ngồi văn phòng ỉàm việc như cũ, đi đâu cũng có xe hơi đưa đón, đít xe còn nhả phè phè khói trắng. Thế những người làm việc dưới trướng của ông bác, chí ít cũng phải hưởng tí đãi ngộ cấp chính quy, hưởng lương bậc mười bảy chứ nhỉ? Nếu không thì quá là bôi nhọ tổ quốc chủ nghĩa xã hội của chúng ta, và cái mặt làm lãnh đạo của ông bác rồi còn gì?”
Tư Mã Khôi nói: “Tiên sư Hải ngọng, đã cóc hiểu gì thì đừng có múa mép linh tinh, lãnh đạo với không lãnh đạo cái gì? Đó chỉ là thời kỳ làm việc dưới sự thống trị của công cuộc cải tổ lại con đường chủ nghĩa sai lầm đơn vị hồi đó giống như một cây đại thụ, chúng ta đều là những con khỉ leo lưng chừng cây, ngẩng đầu lên thì ngắm đít thủ trưởng, cúi đầu xuống thì gặp mặt cấp dưới ngó nghiêng trái phải nhìn đâu cũng thấy toàn là tai mắt. Bây giờ con đường sai lầm đó đã bị phê phán từ khuya rồi, từ nay về sau chúng ta và bác Nông không phải người ngoài xa lạ, chắc ông bác không đến nỗi bắt chúng ta nằm rạp dưới gốc cây ngửi đít đâu mà sợ”.
Hải ngọng phản đối: “Tớ chỉ cần được hưởng luơng bậc mười bảy, thì cho dù có phải nhìn đít lãnh đạo thì cũng có sao đâu? Vả lại, lãnh đạo người ta cũng không thể cởi truồng mà trèo cây được, chí ít cũng phải mặc cái quần lót chứ?”
Bác Nông địa cầu dở khóc dở cười, đành lắc đầu bất lực nghĩ thầm: đem theo hai tên tiểu tử bất hảo này bên mình thật chẳng biết là phúc hay là họa, rốt cục nhiệm vụ lần này rất đặc biệt, đó là tiến vào miền đất xa xôi vùng Tây Bắc, nơi ấy thuộc khu vực không có người ở, rộng hơn hai trăm cây số vuông, nằm trong sa mạc Lopnor, nó vĩnh viễn bị bao trùm bởi tấm mạng che chết chóc đầy kinh hoàng, ngay cả cỏ cây, chim chóc, muông thú đều không thể sinh tồn. Ở đây, ngoại trừ gió cát và thiên tai, thì chỉ có những truyền thuyết ngàn năm, những ẩn số ngàn năm.