Đăng vào: 12 tháng trước
Biến cảnh Kinh Châu.
Sở quân nhanh chóng hành quân mà qua, cuốn theo cát bụi liên miên không dứt, đất Sở nổi tiếng với dân phong nhanh nhẹn dũng mãnh, nhưng đối mặt với đại quân Sở Cố đao sắc binh cường, bọn họ tôn kính lại sợ hãi, nhưng vó ngựa quân đoàn lại khiến cho dân chúng tò mò, xa xa đứng ở ven đường, nhìn theo quân kỳ Sở Cố.
Một nhánh Sở quân này mênh mông cuồn cuộn, đánh tiền đồn là năm vạn tinh binh mà Cố Liệt chọn ra cho Địch Kỳ Dã, phía sau là Vương sư đệ tam quân do Chúc Bắc Hà suất lĩnh, áp tải quân nhu lương thảo.
Chờ đến khi quân kỳ đi xa, bá tánh mới xôn xao nói cười lên, các đại nương đại tẩu bắt đầu bàn tán về tướng quân mặc giáp sắt cưỡi hắc mã mới rồi, lớn lên thật tuấn tú lịch sự, không biết đã có hôn phối hay chưa.
Trong lúc các bá tánh nhọc lòng chung thân đại sự của Địch Kỳ Dã, Tả Hữu đô đốc và Hổ Báo Lang kỵ giáo đốc dưới trướng Địch Kỳ Dã cũng đang cân nhắc về vị Địch tướng quân “Thần binh trời giáng” này của họ.
Biên chế của Sở quân thống nhất, mỗi vị đại tướng tự lãnh tinh binh, bất luận tổng số binh lực là bao nhiêu, đều chia thành hai bộ phận: quân chủ lực và quân xung phong.
Quân chủ lực, từ Tả đô đốc và Hữu đô đốc quản lý; quân xung phong, chia thành Hổ kỵ, Báo kỵ và Lang kỵ, mỗi phần do một giáo đốc quản lý.
Năm vị này, sẽ là bộ hạ lệ thuộc trực tiếp với Địch Kỳ Dã.
Năm vị bộ hạ trực hệ do Cố Liệt lựa chọn cho Địch Kỳ Dã này, đều là nhân tài ngàn dặm mới tìm được một, cũng là những kẻ gai góc tâm cao khí ngạo.
Hơn nữa mỗi người đều có bối cảnh.
Tả đô đốc là hậu bối của Khương gia, đường đệ của Khương Dương; Hữu đô đốc là hàng tướng (1) tại Tín Châu, dính họ hàng xa với Ngao Qua; Hổ Báo Lang kỵ làm giáo đốc đều là con cháu của gia thần Sở Vương, và là những người xuất sắc trong thế hệ đồng lứa tiếp theo.
Ngày phát binh, chúng tướng Sở quân ngầm nói giỡn, đều nói Chủ Công tạo cho Địch tiểu ca một đội quân thiếu gia.
Từ xưa đến nay, loại binh khó quản nhất, không phải lưu dân mạnh bạo, mà là binh thiếu gia, huống chi là năm đại thiếu gia trong thời kỳ loạn thế đủ để sánh ngang với Vũ Lâm Thái Tử quân.
(2)
Bối cảnh của năm vị đại thiếu này không nhỏ là một chuyện, mấu chốt nhất chính là, mỗi người trong bọn họ đều từng bước từng bước vững chắc phát triển, đi theo Cố Liệt tranh bá đánh năm năm sinh tử chiến thành quân công.
Có thân phận, còn có năng lực, khó tránh khỏi lòng tự trọng cao, mắt cao hơn đỉnh.
Tướng quân Địch Kỳ Dã ở đâu rơi xuống này, muốn bọn họ lập tức tâm phục khẩu phục, nói thì dễ làm mới khó.
Địch Kỳ Dã đối đãi với bọn họ, nếu lạnh giọng tàn nhẫn, khó tránh khỏi có vẻ ngoài mạnh trong yếu, không thể khiến cho họ chịu phục; nếu vẻ mặt ôn hoà, lại dễ bị hiểu thành muốn lấy lòng, khiến cho họ coi thường.
Cho nên nói, cứng không được, mềm cũng không xong, điểm khó quản lý của binh thiếu gia, chính là điểm này.
Địch Kỳ Dã liền dứt khoát làm một phát xử lý lạnh, dẫn theo Sở quân cắm đầu hành quân gấp gáp, suốt ba ngày, ngoại trừ mệnh lệnh tất yếu, một câu dư thừa cũng không nói, một bộ dáng cao thâm khó lường, bày mưu tính kế.
Hơn nữa khi truyền lệnh, Địch Kỳ Dã toàn bộ đều dùng chức vị tương xứng của bọn họ, việc gì cũng “Hữu đô đốc” “Lang kỵ giáo đốc”, khiến cho bọn họ hoài nghi có phải Địch Kỳ Dã căn bản còn không nhớ được tên bọn họ hay không.
Bất kể là nói về thứ tự thế hệ, hay ước lượng quan hệ xuất thân, theo lẽ thường, không nói tới lấy lòng, chỉ nói tới giao lưu tướng soái bình thường, cũng nên do Địch Kỳ Dã chủ động giao hảo với bọn họ mới phải.
Năm vị đại thiếu bị hắn lạnh lùng như vậy, đáy lòng không phải không có ý kiến.
Nhưng Địch Kỳ Dã không có hành động gì, một lòng đi đường, bọn họ cũng không thể hành động thiếu suy nghĩ.
Động tác nhỏ không làm, lòng dạ nhỏ vẫn phải có.
Đặc biệt ở dưới tình huống chẳng hiểu sao lại bị lạnh nhạt, bọn họ đều chờ xem trò cười của Địch Kỳ Dã.
Địch Kỳ Dã khoác lác trước mặt Chủ Công rằng “tam chiến định Thanh Châu”, hiện tại chắc không phải không có bản lĩnh mới sợ, trong lòng chột dạ, thế nên ngoài trừ cuống quít lên đường, không làm được gì khác đấy chứ?
Đến ngày thứ tư, sắp vào đến biên cảnh Thanh Châu, Địch Kỳ Dã mệnh lệnh cho tinh binh nghỉ ngơi chỉnh đốn tại chỗ.
Nếu nói ba ngày có thể nhìn ra ưu điểm gì của Địch Kỳ Dã, thì đó là cùng ăn cùng ở với chúng tướng sĩ, không tự phụ làm màu một chút nào.
Hắn không oán giận bất cứ điều gì về đồ ăn, ban đêm hạ trại, cũng không tháo búi tóc y như lão binh, sáng dậy sớm đội mũ giáp, rửa qua mặt xong lập tức xoay người lên ngựa, nhanh nhẹn thật sự.
Quân lính bình thường không rõ ràng lắm, nhưng năm vị đại thiếu lại tinh tường biết rõ, tạp binh của Địch Kỳ Dã là do Chủ Công chọn lựa từ quân cận vệ cho hắn, giữ vững tiêu chuẩn mười hạng toàn năng ưu tú của cận vệ Sở Vương, phàm là Địch Kỳ Dã bắt bẻ chút xíu thôi, muốn ăn gì muốn dùng gì, tạp binh đều có thể nhẹ nhàng thoả mãn yêu cầu của hắn, nhưng Địch Kỳ Dã cũng không cho mình đãi ngộ đặc thù hơn so với quân lính.
Ưu điểm xem ở trong mắt, khuyết điểm ấy hả, liền càng rõ ràng hơn.
Địch Kỳ Dã đang dựa vào đại hắc mã thần tuấn khiến người thèm mắt kia, cầm túi nước gặm lương khô.
Mọi người đều hành quân phong trần mệt mỏi như nhau, vậy mà mình hắn vẫn một bộ thoải mái, quả thực chọc tức người khác.
Năm vị đại thiếu trao đổi ánh mắt, Hữu đô đốc đang định bước ra khỏi hàng, hỏi một câu Địch tướng quân tính làm thế nào tam chiến định Thanh Châu, lại nghe thấy Địch Kỳ Dã mở ra cái mồm quý giá.
“Chúc Bắc Hà còn cách chúng ta xa lắm không?”
Nói tới chua xót, tướng quân Chúc Bắc Hà dẫn theo Vương sư đệ tam quân, có bộ binh có kỵ binh, khác với tinh binh của Địch Kỳ Dã ai cũng có ngựa, họ còn phải áp tải quân nhu lương thảo, Địch Kỳ Dã không chịu chậm lại tốc độ đoàn quân, đương nhiên Chúc Bắc Hà thường thường bị bỏ lại phía sau.
Năm người họ vốn suy đoán rằng đây là lần đầu Địch Kỳ Dã suất lĩnh đại quân, không có kinh nghiệm, nhưng kỳ quái chính là Địch Kỳ Dã lại không hề có ý muốn thay đổi, vì vậy một đường hành quân này Chúc Bắc Hà bị bắt chơi chiến tranh du kích, mệt đến khổ ha ha.
(3)
Chuyện này thuộc về phạm vi quản lý của Tả đô đốc, hắn lập tức cử người đi đến đuôi quân kiểm tra, sau khi biết rõ mới quay lại báo báo: “Còn cần một canh giờ nữa.
”
Địch Kỳ Dã trầm ngâm lên tiếng, một lát sau, nhướng mày cười hỏi: “Có muốn đánh một trận lưu danh sử sách không?”
Năm vị đại thiếu người nhìn ta ta nhìn ngươi, bất luận ở đáy lòng đang muốn xem trò cười hay đã bị gợi lên tò mò, đều chém đinh chặt sắt mà đáp: “Đương nhiên muốn!”
“Tốt!”
Tay Địch Kỳ Dã tung hổ phù lên lại bắt lấy, “Toàn quân lên ngựa, đi theo ta!”
*
Tả Hữu đô đốc thúc ngựa chạy bên cạnh Địch Kỳ Dã, Hổ Báo Lang kỵ ba nhánh quân xung phong theo sát phía sau, bọn họ đi vào một khe rừng giữa núi hiếm có dấu chân người, khiến một đàn chim tước sợ hãi bay loạn.
Tập kích nửa canh giờ, khi mặt trời dần dần ngả về tây, bọn họ đã đi vào giữa sườn núi Đoái Sơn, mà dưới chân núi, chính là trấn mậu dịch quan trọng của Thanh Châu, thành Khê Ngoã.
Thành Khê Ngoã là thành dâu, ngoài thành có một con sông đào bao quanh bảo vệ thành, hai bên bờ sông đều là ruộng dâu, trong thành đông đúc bãi dệt lớn nhỏ, tiếng thoi dệt vang lên không nghỉ, dân chúng toàn thành lấy nuôi tằm xe tơ lập nghiệp, hoặc làm nông dân chăm dâu, hoặc làm thủ công dệt vải.
Trước mắt đúng là thời điểm tằm xuân sắp thành kén, trên sân thóc trong thành phơi thảo long (4) mua từ trấn lân cận, những đụn thảo long được bện từ rơm rạ, chuyên dùng để cung cấp chỗ cho xuân tằm “lên núi” kết kén.
Kế tiếp, chiến sự bắt đầu rồi kết thúc cực kỳ nhanh chóng, ngoài dự đoán của tất cả mọi người, trừ Địch Kỳ Dã.
Mọi mệnh lệnh của Địch Kỳ Dã đều ngắn gọn rành mạch, không cho phép xen mồm.
Phía trên thành Khê Ngoã khói bếp bay lượn lờ, đúng là lúc nhà nhà nấu cơm tối.
Một mũi tên cuốn dầu hoả giống như một giọt mưa lửa bắn xuống sân lúa.
Thảo long bện từ rơm rạ nháy mắt bị châm thành một mảnh biển lửa, thủ vệ không biết vì sao lại cháy, nhìn thảo long quan trọng để kết kén bị biển lửa cắn nuốt, gấp đến độ khua chiêng gõ trống hô to binh lính chủ thành tới cứu hoả.
Khác với Khê Ngoã thành chỉ nuôi dâu tằm, các thành trấn thượng hạ du đều đang đúng vào vụ xuân tưới lúa, mực nước nông cạn của thuỷ đạo trong thành không đủ để cứu hoả, để tránh lửa lớn đốt thành, binh lính thủ thành vội vàng mở rộng cửa thành, xách nước từ sông đào đi cứu hoả.
Đúng vào lúc này, Địch Kỳ Dã dẫn đầu Hổ Báo Lang kỵ như một cơn lốc lao vào, giết binh lính thủ thành không kịp trở tay.
Tập kích bất ngờ trong chớp nhoáng, đúng là như vậy.
Lính tá Yến triều do Liễu gia và Nghiêm gia âm thầm dùng danh nghĩa phú thương thuê tới không còn cửa thành để dựa dẫm, bị tinh binh của Địch Kỳ Dã đánh đến kêu cha gọi mẹ, chết mất một nửa đầu hàng một nửa, khiến binh lính Sở quân tấm tắc kêu lạ, vô cùng khinh thường.
Trời còn chưa tối, trên đầu tường thành Khê Ngoã, đã đổi cờ xí, bay bay quân kỳ của Sở Cố và quân kỳ của Địch tướng quân.
Năm vị đại thiếu lòng nóng như lửa đốt mà chỉnh đốn phòng ngự, sau đó một người nối đuôi một người lượn vào sân lúa tìm Địch Kỳ Dã.
Địch Kỳ Dã đang rất thích thú quan sát hộp gỗ trong tay, trong hộp là vài chiếc lá dâu tươi cùng một con tằm trắng tròn vo, chỉ thấy tằm trắng lười nhác bò quanh, trên lá dâu liền thêm vài cái lỗ nhỏ.
Hắn vừa ngẩng đầu, thấy năm đôi mắt tò mò nhìn chằm chằm mình, ngoan ngoãn không nói tiếng nào.
“Muốn biết ta vừa đánh trận này như thế nào?”
Năm vị đại thiếu liều mạng gật đầu.
Địch Kỳ Dã vừa lòng cười trong tâm, đang chờ các ngươi tới hỏi đây.
*
Tướng quân Chúc Bắc Hà cầm trong tay cái gọi là lời nhắn được lưu lại của Địch tướng quân, cả tờ giấy chỉ viết tám chữ, sau đó đóng một cái ấn tướng quân.
Tám chữ đó là: Đi trước một bước, mau tới Khê Ngoã.
Tướng quân Chúc Bắc Hà yên lặng kẹp tờ giấy vào quân báo, giao cho người ra roi thúc ngựa đưa về Kinh Châu, yên lặng dẫn theo đệ tam quân chạy tới thành Khê Ngoã, dọc đường yên lặng tính toán khi nào quay về tìm Nhan Pháp Cổ tính cái mệnh.
Không phải vì hắn đột nhiên tin chuyện quỷ quái của tên giả đạo sĩ rởm đó, mà bởi vì, có so sánh, mới có đau thương, mất đi, mới hiểu trân trọng.
Hắn thật sự không nên ghét bỏ Nhan Pháp Cổ.
Sau đó hắn thấy được vương kỳ Sở Cố đang đón gió phấp phới trên thành Khê Ngoã.
?!
——————————————————————
Chú thích:
(1) Hàng tướng: tướng đầu hàng
(2) Vũ Lâm Thái Tử quân: Vũ Lâm quân là đội Cấm vệ quân lừng danh trong lịch sử TQ, thành lập từ Tây Hán Võ Đế.
Còn không rõ lắm Thái Tử là chỉ chính xác thời nào.
(3) Khổ ha ha: cười khổ, mua vui trên nỗi khổ của chính mình
(4) Thảo long: không biết là cái gì, nói chung cứ tưởng tượng là cái đụn rơm cho tằm kết kén treo lên ấy.