Đăng vào: 12 tháng trước
Nhóc ăn mày thương tâm một lát, nhưng vẫn nhớ rõ lão già quái đản kia có rất nhiều chốt cơ quan, nó không muốn dáng vẻ mềm yếu của mình bị lão quái đó nhìn thấy hoặc nghe thấy, vì thế nó túm ống tay ao lau khô nước mắt.
Nó ngẩng đầu, thấy ở xa xa Địch tướng quân dắt hai con ngựa chậm rãi đi tới, mà Sở Vương không biết vì sao lại rút ra bảo kiếm đeo tuỳ thân, cắt lấy một mảnh ống tay áo, rồi xé làm đôi.
Trong sân có hai cây cột gỗ thấp bé không chớp mắt, chóp đỉnh của một cái là lỗ vuông góc, của một cái khác là lỗ trên mặt phẳng nghiêng, Cố Liệt dùng hai mảnh ống tay áo che đi cả hai cái lỗ đó.
“Sao ngươi biết chốt cơ quan ở nơi này!” Lão tặc đó đánh mất đôi mắt nhìn trộm, tức giận nói.
Cố Liệt nhìn ống sắt dẫn âm giấu ở thềm gỗ, không để ý đến lão.
Kiếp trước Cố Liệt đánh vào vương cung Yến Triều, từng nhìn thấy chốt cơ quan tương tự như vậy, hẳn là đều xuất phát từ cùng một mạch.
Trên người Vô Song và ngựa nâu đều treo hai bó củi gỗ, ngựa nâu không có ý kiến gì, nhưng Vô Song lại cực kỳ chíu khọ, nhìn thấy Cố Liệt đứng trong sân, còn muốn giật ra Địch Kỳ Dã, chạy đi mách với Cố Liệt.
Địch Kỳ Dã cho nó một ánh mắt “mày dám”.
Vô Song thành thật, quay qua cọ cọ ngựa nâu cầu an ủi.
Địch Kỳ Dã đi vào sân, nhìn thấy áo ngoài của Cố Liệt mất mất một mảnh ống tay áo thật lớn, không nhịn được cười: “Chủ Công, ngươi đã phân đào, giờ lại đoạn tụ, nhảy vào Hoàng Hà cũng không rửa sạch.”
Cố Liệt nhớ tới kiếp trước, mắt nhìn Địch Kỳ Dã, bất đắc dĩ mà nghĩ còn không phải bái ngươi ban tặng.
Kiếp trước vốn chưa bao giờ rửa sạch, kiếp này nào còn quan tâm nữa, Cố Liệt trả lời: “Có cái gọi là bắt gian phải bắt một đôi, có Địch tướng quân gánh thanh danh này cùng bổn vương, bổn vương có gì sợ đâu?”
Lúc này Địch Kỳ Dã mới nhớ tới Cố Liệt mà bị đồn thổi, thì chính hắn cũng chạy không thoát, giết địch một ngàn tự hại tám trăm, hắn không khỏi câm nín.
Hắn dỡ bó củi xuống ngựa, thả nhẹ bước chân, bày một vòng quanh căn nhà gỗ, rồi tưới lên dầu hoả.
Sau đó chậm rì rì mà dùng một ít dầu hoả còn dư lại làm thành cây đuốc.
Lão tặc mất đi đôi mắt nhìn trộm, nội tâm hoảng sợ, không biết bọn họ đang làm gì ở bên ngoài, chợt nghe Cố Liệt hỏi thăm đứa ăn mày, nói: “Ngươi bị bắt vào sơn cốc như thế nào?”
Nhóc ăn mày thành thật trả lời, nói ăn mày già và nó đi theo dòng người chạy nạn đến Tần Châu, lại đúng lúc Sở quân đánh tới, không biết rốt cuộc nên đi về nơi đâu, lúc ấy họ gặp được lão già quái đản đó.
Chân cẳng của lão quái đi đứng bất tiện, chống một cây gậy, nhất thời vô ý ngã ở ven đường, bị người chê cười.
Ăn mày già tốt bụng, cùng nhóc ăn mày nâng lão ta dậy, hỏi lão đi đâu.
Nhưng không ngờ tới lão quái vừa ra tay đã cho hẳn một lượng bạc, nói rằng muốn cảm tạ sự giúp đỡ của bọn họ.
Ăn mày già từ chối, không chịu nhận, lão quái liền mời bọn họ vào quán uống trà, tán gẫu chuyện trò.
Lão quái tự xưng mình chỉ là một đầy tớ, ẩn cư trong núi rừng cùng chủ nhân đã rất nhiều năm rồi, không biết thế cục biến ảo bên ngoài, lần này ra ngoài mua thêm đồ đạc, mới phát hiện đang trong thời kỳ chiến loạn.
Lão lo lắng tuổi mình đã già, không còn bao nhiêu thời gian, không thể tiếp tục chăm sóc chủ nhân nữa, nên muốn mang theo một đứa bé thông minh cần mẫn trở về, làm người kế nhiệm cho mình, tiếp tục chăm sóc chủ nhân sau khi lão chết.
Ăn mày già đi lại trên giang hồ, nhìn ra được y phục, cách nói năng của vị lão tiên sinh này không phải người trong gia đình bình thường có thể có, thân là đầy tớ mà ra tay rộng rãi như thế, càng không bình thường.
Lại nghe nói, đôi chủ tớ này ẩn cư trong sơn cốc, nhiều năm không lao động mà vẫn sống an ổn, chắc hẳn phải là người vô cùng tài giỏi.
Hơn nữa, nếu là ẩn cư sơn cốc, vậy sẽ không sợ những biến cố vì chiến loạn, nếu nhóc ăn mày có thể được coi trọng, tương lai chính là ngày tháng bình yên cả đời, ăn mày già càng nghĩ càng cảm thấy là chuyện tốt, liền mắc câu.
Nghe xong lời gửi gắm ngượng ngùng của ăn mày già, lão quái đánh giá nhóc ăn mày từ trên xuống dưới, nở một nụ cười, nói thật cũng khá thích hợp.
Ăn mày già vui mừng quá đỗi, trịnh trọng bái tam bái với lão quái, bảo nhóc ăn mày theo lão quái đi về.
Trên đường chạy nạn, ăn mày già bị người khác xô đẩy nên bị thương, ông vốn đã lưu lạc nhiều năm, lại rất già rồi, trước kia là ông chăm sóc cái ăn cái uống cho nhóc ăn mày, sau lại phần nhiều là nhóc ăn mày kiếm ăn khắp nơi để chăm sóc cho ông.
Bởi vậy trong lòng nhóc ăn mày biết, nếu mình đi rồi, ăn mày già sẽ không sống nổi nữa.
Nó nơi nào chịu bỏ lại ăn mày già, nói kiểu gì cũng không chịu đi, bất luận ăn mày già mắng nó như thế nào, cũng không đi.
Nó không giỏi nói năng, nên chỉ là trầm mặc.
Ăn mày già không muốn trở thành gánh nặng của nhóc ăn mày, nhẫn tâm mắng một trận, đứa bé ấy lại không nói lời nào, trong lòng ăn mày già cũng khổ sở, một già một trẻ yên lặng nhìn nhau, thê lương gấp bội.
Đến lúc này, lão quái rốt cuộc lên tiếng, nói, trong sơn cốc cũng tịch mịch, có thêm người kể cho chủ nhân nghe những chuyện bên ngoài cũng tốt, không bằng ăn mày già cùng vào núi đi thôi.
Có thể không cần từ biệt, hai người vui mừng khôn xiết, bọn họ theo lão quái đi vào sơn cốc, quả nhiên trông thấy rất nhiều phòng ốc, xây dựng tinh xảo, tuy có hơi đổ nát, nhưng chung quy vẫn tốt hơn rất nhiều so với binh hoang loạn mã ở ngoài kia.
Lão quái chiêu đãi bọn họ, đầu tiên là tắm gội thay xiêm y, ăn cơm no, ngủ một giấc thật ngon, rồi mới đi bái kiến chủ nhân.
Gia đình giàu có có nhiều quy củ, ăn mày già vẫn chưa sinh nghi, còn nói làm phiền rồi.
Ngày hôm sau, nhóc ăn mày tỉnh dậy, lão quái nói cho nó, ăn mày già đưa nó vào sơn cốc, hoàn thành được tâm nguyện cuối cùng, đã ra đi trong giấc ngủ mơ rồi.
Sét đánh giữa trời quang, không hơn như vậy.
Nhóc ăn mày không muốn tin tưởng ăn mày già đã mất rồi, mặc kệ lão quái khuyên nhủ thế nào, nó cũng không chịu hạ táng ăn mày già, thậm chí ngược lại còn sinh nghi.
Chính nó cũng không rõ mình lấy đâu ra sức lực, mà có thể cõng cả di thể của ăn mày già trốn ra ngoài.
Ngày đông băng giá, nhóc ăn mày không màng bản thân mình rét buốt, tìm một sơn động náu thân, trông coi di thể của ăn mày già, mới qua hai ngày, miệng mắt tai mũi của ăn mày già đều biến thành đen, ngực phát tím, hiển nhiên là dấu hiệu trúng độc.
Nhóc ăn mày liền kéo theo thanh đao tìm được sơn động, đi tìm lão quái để báo thù, dùng cơ quan của lão quái để vây khốn lão.
Lão quái lại không hề cảm thấy có chút hổ thẹn nào vì hại người, thậm chí đắc ý dào dạt, khiến nhóc ăn mày tức giận bỏ về sơn động, nhìn thấy thi thể của ăn mày già lại là một hồi thương tâm.
Ngày hôm sau, nhóc ăn mày gom đủ dũng khí, một lần nữa tới chất vấn lão quái, liền đụng phải Cố Liệt và Địch Kỳ Dã.
Nhóc ăn mày không kể ra hết những bi phẫn, thương tâm trong mấy ngày nay, chỉ nói rành mạch những việc đã xảy ra, nhưng Cố Liệt và Địch Kỳ Dã đều người thông minh tuyệt đỉnh, nơi nào không nhìn ra trong ngôn ngữ bình tĩnh gãy gọn của đứa bé này giấu đi biết bao hoang mang sợ hãi.
Lúc này, lão tặc âm u lạnh lẽo mà cười rộ lên, nói ăn mày già lòng tham có thừa, đến cửa xin cơm, chết không hết tội.
Chỉ một câu của lão đã khiến nhóc ăn mày tức giận đến phát run, Cố Liệt đặt một tay lên vai nó, Địch Kỳ Dã nhấc chân đạp một cái lên một hòn đá trên mặt đất, tinh chuẩn đá trúng ống dẫn âm, cọ ra một tiếng vang rung chói tai, lão tặc không phòng bị hét to một tiếng, hẳn là bị tiếng vang nặng nề chấn vào lỗ tai.
“Lão tặc,” Địch Kỳ Dã không quan tâm tới mấy câu móc mỉa của lão, “Ngươi còn có di ngôn gì cần nói nữa không?”
“…… Mi có ý gì?”
Địch Kỳ Dã cười khẽ: “Ngươi sẽ không cho rằng, ta không xuống tay để giết ngươi được đấy chứ? Nói thật cho ngươi nghe, ta xếp một vòng củi lửa bên ngoài ngoài nhà gỗ của ngươi rồi, trời lạnh thế này, có thiêu được lên không, ngươi liền phó mặc cho số phận đi.
Thiêu chết là ngươi đáng đời, không thiêu chết, ta đây đành phải bị liên luỵ, bới ngươi ra, tặng thêm một đao.
Tóm lại ngươi phải chết ở hôm nay, cho nên, ngươi có còn gì vô nghĩa muốn nói nốt không?”
Hắn vừa nói vừa ra dấu hiệu, dùng ngôn ngữ của người câm trong Sở quân, nghĩa là lùi về phía sau.
Cố Liệt nắm bả vai của nhóc ăn mày, dẫn theo nó lùi về phía sau, mãi đến ra khỏi sân, đứng cùng một chỗ với Vô Song và ngựa nâu.
Lão tặc bắt đầu hoảng sợ: “Mi, sao mi có thể ác độc như thế!”
Địch Kỳ Dã cảm thán: “Ngươi chết đến nơi rồi mà sao vẫn không biết xấu hổ thế.
Ngươi mắng ta ác độc, y như Vi Bích Thần mắng Cố Liệt lòng dạ xấu xa, Mục Liêm mắng Ngô Côn điên điên khùng khùng.
Trên dưới sư môn của các ngươi, không có ai bình thường sất cả.”
Lão tặc không đổi được cái đầu óc tràn đầy âm mưu hiểm ác, nghe xong lời này, thế mà nói: “Mục Liêm mắng thủ lĩnh Phong Tộc? Phế vật này lại phát bệnh gì? Mà sao mi biết được! Mi xúi giục Mục Liêm cãi lời ta?”
“Xem ra ngươi không có lời nào để nói,” Địch Kỳ Dã nhún vai, đánh đá lửa, chuẩn bị thắp đuốc.
“Chậm đã!…… Chậm đã!”
Lão tặc ý thức được Địch Kỳ Dã không phải đang nói đùa, lập tức hô to: “Các ngươi không thể giết ta!”
Không quen dùng đá đánh lửa, nhưng Địch Kỳ Dã cũng không nóng nảy, chậm rãi đánh, ung dung nói: “Chờ ngươi chết rồi, ngươi sẽ biết ta có thể giết ngươi hay không.”
“Đường đường là Sở Vương, sao có thể dung túng thủ hạ vận dụng tư hình! Vương tôn như thế, sao có thể lập quốc!” Lão tặc nghe Địch Kỳ Dã nói chuyên bâng quơ như vậy, cho rằng còn dư đường sống, vì thế bỏ qua Địch Kỳ Dã, chất vấn Cố Liệt.
Cố Liệt vốn lười đáp, nhưng thấy đứa bé bên cạnh ngẩng đầu nhìn mình, nên trả lời rằng: “Ngươi bắt cóc trẻ em, giết hại người vô tội, còn dùng tà thuyết quỷ biện ăn mòn nhân tâm, dạy ra hai đồ đệ tai hoạ nhân gian, tội ác tày trời, ai cũng đều có thể giết.”
“Nói nữa,” Cố Liệt nhìn Địch Kỳ Dã rốt cuộc đã đánh ra mồi lửa, nói một câu rất là thật với người sắp chết, “Bổn vương thật sự không quản được hắn, ngươi muốn xin tha, xin hắn đi.”
Nghe vậy, Địch Kỳ Dã không phục mà quay đầu lại nhìn Cố Liệt, bị Cố Liệt trừng mắt một cái, lại quay đầu đi, tức giận hỏi, “Lão tặc, ngươi nói xong chưa?”
“Các ngươi không thể giết ta!” Lão tặc rốt cuộc luống cuống, “Chủ nhân của ta là Công Tử Lịch! ‘Tài học mười xe, nhìn thấu thiên cổ’ Công Tử Lịch! Các ngươi giết ta, chính là giết truyền nhân cuối cùng của hắn!”
“Từ từ.”
Cố Liệt gọi Địch Kỳ Dã dừng lại, chất vấn lão tặc: “Công Tử Lịch ẩn cư Thanh Giản, xây thiên hạ Tàng Thư Các, chứa trăm vạn tàng thư, mở trường dạy học tại Thanh Giản, không giới hạn người tới, từ vương tôn cho tới nông phu, học sinh trải rộng khắp thiên hạ, sau này tiền triều loạn lạc, không rõ tung tích.
Ngươi nói ngươi là truyền nhân cuối cùng của Công Tử Lịch, có bằng chứng gì?”
Lão tắc kia lại cười ha hả: “Cái gì mà học sinh trải khắp thiên hạ, hắn lãng phí công sức dạy học sinh, cuối cùng nghèo nàn đến độ chỉ còn lại mỗi đám sách ấy, hắn còn luyến tiếc đem bán.
Mấy thứ đạo lý mà hắn nói, đều cổ hủ vô dụng, không thông hiểu lòng người bằng cả ta.
Người người thổi phồng tài học của hắn, nếu không phải ta trộm sách ra ngoài bán, cái tên tài tử đó đã sớm chết đói rồi!”
“Thanh danh của hắn tốt, hừ, chẳng qua xuất thân của ta không hắn, nếu ta là hắn, làm gì đến nỗi mai một trong sơn cốc này, ta nhất định đã sớm thành thầy của đế vương, là khách quý của kiêu hùng trong loạn thế rồi!”
“Học sinh hắn dạy ra, có kẻ nào quấy lên phong vân thiên hạ? Học sinh ta dạy ra, mỗi người là nhân vật anh hùng!”
Cố Liệt nhíu mày: “Ngươi là đầy tớ của Công Tử Lịch? Ngươi bán tàng thư?”
Đầy tớ là nô tịch, không thể thi công danh, xác thật có bất công.
Nhưng vấn đề căn bản của lão tặc này không nằm ở xuất thân, mà là bản tính độc ác.
“Bán mất mấy quyển,” lão tặc không muốn trả lời thân phận của mình, không cho là đúng mà nói, “Dù sao phải ăn cơm.”
“Còn thiên hạ Tàng Thư Các?”
Lão tặc lại cười to một trận: “Ngươi còn chưa rõ? Nơi này, chính là Thanh Giản từng danh chấn thiên hạ! Tàng thư đã sớm bị người cướp sạch rồi! Công Tử Lịch tên phế vật chỉ toàn hư danh! Ai có thể nghĩ tới, kẻ được gọi là ‘tài học mười xe, nhìn thấu thiên cổ’ lại đói chết tươi cơ chứ, ha ha ha ha ha ha.”
Địch Kỳ Dã nghe đến đó, tuy không biết Công Tử Lịch là ai, nhưng lại nhận ra được điểm đáng ngờ, lạnh giọng hỏi: “Ngươi là đầy tớ của Công Tử Lịch, người nói tàng thư đều đã bị người khác cướp sạch, còn hắn đói tới chết, nếu thế vì sao ngươi vẫn còn sống đến bây giờ?”
Tiếng cười của lão tặc đột nhiên im bặt, á khẩu không trả lời được.
Sau một lúc lâu, lão tặc mới lên tiếng, hư trương thanh thế nói: “Tóm lại ta là truyền nhân cuối cùng của Công Tử Lịch, nếu ta chết, sẽ không còn ai hiểu biết về học thức của hắn nữa!”
Cố Liệt lại kết luận: “Theo như lời của ngươi, tất cả hành động ngươi làm, đều hoàn toàn đi ngược lại với tấm lòng đưa ơn huệ khắp thiên hạ của Công Tử Lịch.
Công Tử Lịch chưa bao giờ thu ngươi làm đồ đệ.
Ngươi chỉ là một kẻ tiểu nhân trộm sách bán lấy tiền, mua danh chuộc tiếng, không biết liêm sỉ, không biết kính sợ, tâm địa rắn rết, tàn hại chủ nhân mà thôi.”
Cố Liệt lạnh giọng nói: “Ngươi tự nhận thứ tà đoan dị đạo của ngươi vô cùng cao minh, vậy tại sao cái chết sắp ập xuống đầu ngươi rồi, mà ngươi vẫn phải đánh cờ hiệu của Công Tử Lịch để xin tha?”
“Ta, ta biết thiên hạ Tàng Thư Các ở đâu!” Lão tặc không phản bác lại được, cuống quýt tìm lý do để cầu sinh cho mình.
Địch Kỳ Dã nhìn Cố Liệt ra hiệu, không chút do dự mà ném cây đuốc xuống.
“Không lưu lại ngươi được.”
“Không ——! Các ngươi không thể giết ta! Ta có tài hoa! Ta có thể tính kế thiên hạ! Các ngươi không thể?”
Cây đuốc chạm vào dầu hoả, xèo một tiếng bốc cháy lên hừng hực, tức thì bao phủ bó củi trong ngọn lửa, có củi làm trợ lực, nhà gỗ cũng dần dần cháy lên.
Địch Kỳ Dã rời khỏi sân, sải bước leo lên lưng Vô Song, Cố Liệt cưỡi trên con ngựa nâu, đưa tay cho nhóc ăn mày đang luống cuống chân tay, xách nó lên ngồi ở trước người mình.
Bọn họ giục ngựa rời khỏi đó một đoạn, tới nơi ban đầu hai người ẩn thân, mới kéo dây cương xoay đầu ngựa, lẳng lặng nhìn căn nhà gỗ đó hoá thành biển lửa tận trời, cùng tiếng kêu thảm thiết dần dần hoá thành hư vô.
“Chủ Công, thiên hạ Tàng Thư Các thì sao?”
“Lão tặc ra tay quá hào phóng, lời nói việc làm rất khả nghi,” Cố Liệt suy đoán, “xuất thân của Công Tử Lịch bất phàm, chưa từng nghe nói hắn trở nên khốn cùng, vất vả khi về già.
Nếu tàng thư vẫn còn, nhất định sẽ nằm bên trong sơn cốc này.
Chúng ta ở lại đây một ngày, nếu không tìm thấy, thì phái người phong toả sơn cốc, sau này lại đến tìm tiếp.”
Địch Kỳ Dã tò mò: “Công Tử Lịch đó là nhân vật nào vậy?”
“Là một vị đại tiên sinh của tiền triều, có thể nói là toàn tài, yêu thương thiên hạ, tài đức vẹn toàn.” Cố Liệt đưa mắt nhìn bốn phía, sơn cốc này tĩnh lặng, thanh u, đại thụ cao ngất, dây đằng thô to kỳ quái leo đầy xung quanh, là dáng vẻ hiếm có người tới.
Nhưng “Thanh Giản” trong truyền thuyết mấy chục năm trước, là nơi suối nước chảy xuôi, vô số trúc xá, một nơi bác học mà ở đâu đâu cũng có thể nghe thấy tiếng biện luận, tiếng đọc diễn cảm.
Còn có cả văn nhân nhã tập như “học xã”, “biện hội”, người tài dị sĩ không ngừng tới lui, làm thơ đấu rượu, cười luận thiên hạ.
Đó là cảnh tượng thịnh thế của tiền triều.
Thịnh cảnh ấy, tiền triều có thể có, tương lai Đại Sở cũng sẽ có.
Kiếp trước Cố Liệt đã làm được, đời này, tất nhiên phải làm được càng tốt hơn so với kiếp trước.
Địch Kỳ Dã hồi tưởng những gì mình quan sát được, lên kế hoạch, nói: “Sơn cốc này có sáu nơi có người ở, mỗi kiến trúc lại có một công dụng khác nhau, phần lớn ta đều chưa bao giờ vào xem xét.
Nếu muốn tìm tàng thư”
“Không vội,” Cố Liệt ngắt lời hắn, cúi đầu nhìn đứa bé đang ngồi vô cùng ngay ngắn trước người mình, “Sơn động mà ngày trước ngươi ẩn thân ở đâu? Dẫn ta tới đó.”
Tàng thư của Công Tư Lịch là thu hoạch ngoài ý muốn, Cố Liệt hắn cố tình đến núi Thanh Thành một chuyến, cũng không phải vì tàng thư gì hết.
Sơn động? Động tác giật dây cương của Địch Kỳ Dã khựng lại, vậy chẳng phải là sơn động mà hắn đã từng ở sao?.