Đăng vào: 12 tháng trước
Anh quen Philip năm học lớp Mười. Philip không hẳn là bạn thân của anh, cùng lắm chỉ là thân hơn trên mức xã giao quen sơ mà thôi.
Philip là một con mọt sách theo trường phái học thuật Anh Quốc điển hình, phát huy sự tiêu cực, bảo thủ và bị động trong việc xã giao đến mức tối đa. Ceasar từng có thói quen ghi chép nhật ký bí mật hai năm —— thanh thiếu niên mười bốn tuổi rất dễ xúc động, đạt đến sự tò mò tối đa trước tất cả mọi chuyện không biết, thường có rất nhiều cảm xúc muốn trút bỏ. Nhưng ở Muhlenberg, không ai sẽ lắng nghe một thiếu niên chưa dứt sữa nói nhảm cả.
Philip từng là bạn cùng phòng ký túc xá một năm với anh, trong một năm đó, quái nhân kia trở thành người xuất hiện với tần số cao nhất trong cuốn nhật ký lúc Ceasar mười bốn tuổi. Anh đã từng dùng rất nhiều từ ghê gớm hà khắc để miêu tả người này, nhưng anh cảm thấy khớp với thực tế nhất chính là: một khi có thông tin bí mật xuất hiện, thì ở khu đông của thượng Manhattan, trong số những người trẻ tuổi tham dự các cuộc họp hay bữa tiệc xa xỉ, chắc chắn Philip sẽ là người biết cuối cùng.
Nếu anh ta nghe được chuyện bí mật gì, thì nhất định mọi người đã biết thông tin đó rồi.
Anh chắc chắn mình vẫn chưa trở thành trò cười trong giới xã giao New York, hoặc là Arthur đã xử lý chuyện này một cách bí mật.
Nhưng bằng cách nào mà Harold lại biết Philip sẽ là người đầu tiên anh tìm đến nhờ giúp đỡ?
Cho đến khi gặp Harold tại phòng cà phê tư nhân trong ngân hàng Hoa Kỳ, anh chắc chắn mình nhiều năm qua mình đánh giá thấp người cha này.
Anh được một tay Arthur nuôi lớn. Đối với Arthur mà nói, Harold là một người con trai phạm phải sai lầm, là sự sỉ nhục của gia đình, người như thế không có tư cách dạy dỗ con cháu đời sau. Dù là cha ruột, nhưng Harold không ảnh hưởng đến suy nghĩ của anh nhiều bằng cha đỡ đầu. Mà mọi chuyện ăn uống sinh hoạt thường ngày của anh cũng đều do Thompson quản lý.
Harold hoàn toàn khoanh tay đứng ngoài trong quá trình anh trưởng thành, không hề tham gia dạy dỗ. Những năm qua, quan hệ cha con giữa hai người cực kỳ hời hợt. Thỉnh thoảng có cơ hội ở riêng thì lại không được mấy phút, nhất định sẽ có một trong hai người không chịu nổi sự lúng túng im lặng kéo dài, tìm đủ cớ để rời đi.
Phần lớn thời gian, Harold xuất hiện trước mắt anh luôn trong hình tượng hèn yếu, im lặng ít nói.
Gia đình này không hề êm đềm như bên ngoài, khuôn mặt giả nhân giả nghĩa là lớp ngụy trang tốt nhất của tất cả mọi người. Dưới lớp mặt nạ đó, mọi người nhìn rất công bằng, có thể cười nói tao nhã với bất cứ ai, làm như không có chuyện gì từng xảy ra; nhưng trong gia đình đó, bọn họ lại có sự sùng bái tối cao về tiền tài, quyền lợi, quyền thừa kế và quyền phát biểu, thông qua những chuyện này, bọn họ phân ra từng tầng cấp bậc vô cùng nghiêm ngặt.
Khi lén nhắc đến Harold, mọi người luôn gọi ông là: người đàn ông đó.
Ngay tức khắc mọi người như nhận được ám thị ngầm, cúi đầu cười trộm, “Cái người hèn nhát đó, anh nhìn xem ông ta ngu xuẩn đến đâu, bao giờ cũng khép nép trước Arthur, nhưng chưa từng thấy Arthur hòa nhã với ông ta lần nào. Thậm chí ông ta còn thua cả người giúp việc.”
Mỗi khi anh đi qua đám người vì thể diện mà phải nấp trong góc để lén lút bàn bạc chuyện riêng của người khác kia, thì âm thanh xì xào cười nói như ruồi muỗi sẽ lập tức im bặt như bấm nút trên radio vậy. Bọn họ vờ như không có chuyện gì mà nói với anh thời tiết thật đẹp, nghe nói cậu học hành không tệ, có nhận được thư tình của các cô gái không, vân vân. Hoặc là nói mấy câu chuyện cười để lấp liếm đi chuyện ban nãy, vừa nói xong câu cuối cùng là lại lúng túng cười xòa.
Nếu không phải thỉnh thoảng có người nhắc lại chuyện cũ năm xưa, Ceasar khó mà tin rằng, người đàn ông tuấn tú có đôi mắt như đại dương nhiệt đới đó, vào năm hai mươi tuổi đầy hăng hái, ông cũng từng là tình nhân trong mộng của tất cả các cô gái trẻ tuổi ở New York, là cậu con rể mà mọi gia đình ở Long Island nhìn trúng.
Vậy mà ngày hôm nay, sự tôn nghiêm duy nhất của người đàn ông trung niên này có lẽ là đến từ Ceasar – cậu con trai duy nhất của ông.
Đưa Ceasar đến trên đời, dường như đã trở thành chiến công ít ỏi của ông trong gia đình này.
Có người nói sự ra đời của anh là sự trả thù của Harold với Arthur, nhưng cuối cùng Arthur vẫn tha thứ đón nhận Ceasar, còn dốc hết tâm huyết bồi dưỡng anh, biến anh thành một sinh mệnh độc lập mà Harold hoàn toàn không đồng ý và hiểu nổi, đấy chính là sự phản kích của Arthur.
Còn về mẹ đẻ của Ceasar, mọi người thường ngậm miệng không nhắc đến – như thể là luật bất thành văn đã được định ra. Không được nhắc đến bí mật này, mọi thông tin đều bị cắt từ ngọn nguồn, bọn họ chỉ có thể tìm kiếm chút dấu vết trên khuôn mặt anh để lén lút phỏng đoán. Tuy Arthur chặt đứt nguồn tin tức, nhưng lại để mặc mọi người tự suy đoán; rồi suy đoán đó dần dần trở thành đủ kiểu, cứ như kiểu suy đoán sau lại đến gần chân tướng hơn suy đoán trước. Nhưng đến lúc không thể nào tra cứu được chân tướng, thì Arthur cũng đạt được mục đích của mình.
Cho tới khi Thompson tố giác mình ở trên bàn ăn, từ sau cái đêm rời bàn ăn quay về phòng, anh phát hiện có lẽ Harold không hèn nhát như anh từng nghĩ.
Rồi đến lúc anh gặp lại ông ở phòng cà phê khách VIP tại ngân hàng Hoa Kỳ.
Tủ sắt có chìa khóa đôi đã được giám đốc ngân hàng chuyển từ kho bảo hiểm ra; và kiện hàng của anh tại ngân hàng thành phố cũng xuất hiện trên chiếc bàn hình chữ nhật này.
Harold mặc một bộ âu phục sọc dọc màu xám gọn gàng, ngồi trên ghế sofa nhung màu đỏ đối diện với anh, thoạt nhìn rất có thể diện tôn quý như mọi thương nhân thành công ở cái tuổi này. Tóc màu vàng nhạt, có nguy cơ dần bị hói, khóe mắt có nếp nhăn, mao mạch vỡ dưới bề mặt da trong suốt nhạy cảm, ở độ tuổi trung niên thì diện mạo như thế vẫn khá là anh tuấn. Nhưng thỉnh thoảng những lúc cười lên, người đối diện sẽ bắt gặp chút chua xót thoáng vụt qua trên gương mặt đó. Nếp nhăn nơi đuôi mắt đã bán đứng ông, Ceasar từng cho rằng đó là sự cô đơn và bất lực trong nhiều thập kỷ gộp lại, cho đến tận lúc này, anh mới nhận ra có lẽ đó là sự tích lũy của một cảm xúc khác.
Với Harold, xúi giục Thompson làm chuyện bất lợi với Arthur hình như cũng không phải là chuyện gì khó; xúi giục giám đốc ngân hàng quản lý phụ trách trông coi tủ bảo hiểm của Arthur, đối với ông cũng là một chuyện rất dễ dàng; thậm chí trong vòng mấy tiếng đồng hồ anh xuất hiện ở New York, ông đã lập tức đoán được hướng đi của anh.
Nói không chừng sự báo thù của ông vẫn chưa kết thúc.
Tất cả đều đã xem thường người đàn ông diễn kịch câm suốt nửa đời này rồi.
Câu đầu tiên Harold mở miệng nói là, “Tủ sắt ở đây, Thompson đã đặt chìa khóa bản sao trong két sắt của con, bây giờ nó cũng ở đây.”
“Con thấy rồi.”
“Một chiếc chìa khóa khác đang nằm trong tay giám đốc ở ngoài cửa, trước lúc đó, cha có thể xác nhận mấy chuyện với con được không?”
Ceasar đáp, “Dĩ nhiên là có thể.”
Dừng lại một lúc, Harold nói, “Con định mở chiếc két sắt này ra thế nào?”
Ceasar nói, “Con có quyền lợi này. Bởi vì đó là ID của con, nếu không con có thể nhờ cảnh sát giúp đỡ, để bọn họ tới mở chiếc két sắt này ra, đấy là khả năng xấu nhất.”
“Nhưng con biết đấy, giám đốc ngân hàng cũng có quyền báo lại với Arthur.”
“Thế thì sao? Con chỉ muốn lấy lại thứ thuộc về con, con không làm bất cứ chuyện phạm pháp nào.”
Harold thở dài, nói, “Mọi thứ con muốn lấy lại, ở đây cả sao?”
Anh đáp, “Đúng thế, ở đây cả.”
Harold, “Trong này không có bất cứ thứ gì đáng tiền.”
“Một người trưởng thành có giáo dục, cơ thể khỏe mạnh, thì sẽ không sống nổi nếu rơi vào tình huống thế nào?”
Harold tiếp lời, “Làm vệ sĩ riêng cho người khác, dịch tiểu thuyết, làm chút buôn bán nhỏ? Hoặc là vừa làm việc, vừa đi học lại để lấy được tấm bằng tốt nghiệp môn con thích, dựa vào trí thông minh của con, thì đạt được một tấm bằng đáng tiền trong một hai năm tới chỉ là chuyện nhỏ.”
Ceasar nhìn cha mình chằm chằm, cảm thấy thật khó tin.
Mấy giây sau, anh cười nói, “Đây chính là dự tính của cha của hơn hai mươi năm về trước sao?”
“Cha đang hỏi con.”
“Con cho rằng mình có thể không cần phải trả lời.”
“Cha là cha của con.”
“Còn con là người tự do.”
Harold nhìn anh một lúc, cười lắc đầu đáp, “Sao con biết mình thật sự lấy được tự do? Là cha đánh giá thấp con, hay con đánh giá thấp Arthur?”
Ceasar nói, “Điều con biết, chính là tất cả mọi người đều đã đánh giá thấp cha.”
“Tuy con đang đi vào con đường cũ của cha, nhưng vẫn phải thừa nhận một chuyện, con sáng suốt quả quyết hơn cha lúc trẻ, và cha cũng rất yên tâm về điều đó. Nhưng cha nghĩ có lẽ con cần phải hiểu rõ hơn cha, Arthur không dễ bị gạt như thế.”
Hoài Chân híp mắt, thử hỏi dò, “Ông ấy có hành động gì sao?”
Harold bĩu môi, “Ví dụ có thì ông ấy cũng sẽ che giấu thôi.”
Ceasar nói, “Dù là tình huống thế nào, con cũng sẽ không quay về.”
Harold cười, giơ tay nhấn chuông đồng sau lưng.
Hai phút sau, vị giám đốc bụng bự đi vào, giao một chiếc chìa khóa màu đỏ đồng trong xâu chìa khóa cho Harold, ngay sau đó xoay người đi ra ngoài, đóng cửa lại.
Ông cụp mắt nhìn xuống bàn tay, lật tới lật lui thứ gì đó ở trên bàn. Đó là một động tác khá ưu nhã, trong một chớp mắt, Ceasar cứ ngỡ ông ấy muốn hút xì gà trong phòng cà phê tư nhân này.
“Két” một tiếng.
Ông dùng chiếc chìa khóa màu đỏ đồng chuyên dụng của giám đốc để mở két bảo hiểm được khóa đôi ra, sau đó lại bẻ chìa khóa đi, “Dùng xong phải hủy ngay.”
Rồi ông nhìn về bàn vuông kê góc tường bên kia, đánh mắt ra hiệu tự anh đến mở gói đồ của mình, lấy chìa khóa ra mở tủ sắt.
Nhìn ông làm bộ làm tịch như vậy, Ceasar không nhịn được chế giễu, “Cha đã mở ra nhìn trước rồi đúng không?”
“Thompson nói cả cho cha rồi.”
Như thể đẩy hết mọi trách nhiệm qua cho Thompson là có thể phủi sạch tất cả hiềm nghi của ông.
Ceasar nói tiếp, “Thậm chí cha từng đọc nhật ký mười bốn tuổi của con. Nếu không làm sao cha có thể tìm đến Philip.”
Harold bắt đầu giả câm điếc, chà xát tay, mở bọc đồ ở ngân hàng thành phố ra, lấy chiếc chìa khóa bản sao đặt trong khăn tay, háo hức nói, “Lại mở đi nào, xem ngoài thẻ căn cước của con ra còn có bảo bối gì khác không.”
Ceasar nhìn người đàn ông trước mặt, bình thường ông là một người trung niên sa sút trầm lặng, không có chút gì gọi là thú vị. Nhưng lúc này ông lại trưng ra bộ mặt thật của mình, tựa như trở lại những năm tháng còn trẻ, có cảm giác ngày xưa được tái hiện lại, được tách rời hẳn với thực tế.
Harold lấy tấm thẻ nhỏ nằm cô độc trong két sắt ra, thất vọng ra mặt.
Ông cầm thẻ căn cước lên nhìn, nói, “Kiểu đầu húi cua này trông rất ngốc, ai cắt cho con thế?”
Ceasar nhìn Harold, cảm thấy khó tin.
Anh tức giận, “Trưởng ban giáo vụ trường West Point cắt.”
Harold ồ một tiếng, không bình luận gì thêm, đặt nó ở giữa tấm vải màu xanh nhạt trong túi đồ. Nhìn chăm chú một lúc, ông lại bắt chuyện, “Bộ quần áo không tệ.”
Khóe miệng Ceasar giật giật, nói, “Cám ơn.”
“Một bộ quần áo, bằng tốt nghiệp, thẻ công tác ở đồn cảnh sát liên bang, thẻ căn cước… Cuộc sống của con đúng là đơn giản.”
“Vẫn luôn như thế.”
Đột nhiên Harold nói, “Liệu cha có thể may mắn gặp mặt cô gái kia không?”
Ceasar im lặng, nhìn ông đầy phòng bị.
Harold nhìn anh, vẫn cười nói, “Hoặc là hôm khác.”
Anh nhét thẻ căn cước vào ví tiền, còn quần áo và tài liệu thì bỏ vào trong balo và cặp hồ sơ đã chuẩn bị trước đó.
Harold ngồi yên không nhúc nhích, trông có vẻ không định rời đi.
Ceasar hỏi, “Cha còn chuyện gì sao?”
“Có thể trò chuyện với con nhiều hơn chút không? Vừa hay nơi này đủ để che giấu tai mắt, cũng là nơi tốt để gia tăng tình cha con.”
“Liên quan đến chuyện gì?”
Ông im lặng một lúc, châm thuốc rồi đưa lên môi ngậm, bảo anh ngồi xuống.
Harold nói tiếp, “Lấy thẻ căn cước rồi, con có dự định gì với cô bé kia không?”
Ceasar nói, that’s my business. (Đó là chuyện của con.)
Harold nói, “Với kinh nghiệm của cha, có lẽ cha có thể đưa ra đề nghị cho con. Gia đình Trung Quốc rất nghiêm khắc về chuyện con gái trong nhà yêu đương. Không chỉ gia đình Trung Quốc, mà cả Trung Quốc vẫn chưa thoát khỏi xã hội phụ hệ của thời đại phong kiến, luôn ràng buộc đạo đức một cách quá đáng với phái nữ. Con gái một gia đình Trung Quốc đứng đắn không thể hẹn hò với người da trắng. Dù con cũng ra đời trong một gia đình Đức rất truyền thống, nhưng kiểu truyền thống của Trung Quốc lại còn nghiêm khắc hơn thế mười ngàn lần, không chỉ là vấn đề có mất trinh hay không. Thậm chí chỉ ‘nghe nói đã bị mất trinh’, cũng sẽ khiến cô ấy bị gia đình bài xích. Con hiểu ý của cha không? Nếu như con chỉ muốn chơi trò yêu đương…”
Ceasar quả quyết cắt ngang lời ông, “Con nghiêm túc với tình cảm của mình. Chỉ cần con ở cạnh cô ấy, tuyệt đối sẽ không để bất cứ ai làm tổn thương cô ấy, mà người đó càng không thể nào là con được, trừ khi con chết. Con rất ghét trò chơi cuộc đời.”
Harold nhớ lại những gì mình vừa nói, chợt rít một hơi thuốc, vẩy hai lần rồi nói, “Được, được.”
Đột nhiên Ceasar cảm thấy có gì đó sai sai.
Khi làn khói tan đi, trong đôi mắt xanh kia là sự yên tâm và đau thương cực lớn
Harold muốn nói gì tiếp đây?
Anh cảm giác con tim trong lồng ngực chợt nảy mạnh hai cái, cả thế giới bỗng yên tĩnh trống trải lạ thường, mọi thứ trở nên trống rỗng.
Trong nơi trống rỗng đó chỉ có anh và Harold đứng đối diện nhau, những bộ phận khác đều được loại bỏ sạch sẽ, lời Harold nói dần dần lấp vào chỗ trống.
Ngay sau đó, anh nghe thấy giọng Harold trở nên rõ ràng một cách khác lạ.
Ông nói, “Xin lỗi, quả thực cha có hơi kích động. Chuyện cha muốn xác nhận chính là chuyện này, mà đây chính là câu trả lời cha mong muốn. Nói thật, cha rất vui khi thấy con như thế, toàn tâm toàn ý hiểu và gần gũi với một cô gái đến từ phương Đông, điều đó khiến cho chuyện cha muốn làm ngay sau đây trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Chuyện này, cha vốn nên kể cho con từ lâu lắm rồi, nhưng vì nhiều nguyên nhân, vì cha ngây thơ hy vọng được gia đình tha thứ, khiến cha con ta càng ngày càng cách xa câu chuyện này. Sau đó xảy ra quá nhiều chuyện, Arthur đã cô lập tình cảm của con với cha, tiến hành giáo dục cực đoan với con, cũng khiến cha phát giác mình khó có thể kể chuyện đó ra. Vì chuyện đó sẽ mang đến cho con đau đớn rất lớn. Nhưng cha nghĩ, có lẽ bây giờ chính là thời điểm. Không có thời cơ nào tốt hơn lúc này cả.
Ceasar, cha biết con nóng lòng muốn chạy về với người yêu con cùng với tự do, nhưng nếu con đồng ý, cho phép cha trì hoãn thời gian bốn mươi phút của các con. Nghe chuyện này rồi, có lẽ sẽ để con tiến gần đến cô ấy hơn… Có lẽ con cũng đã đoán được chuyện này, đúng thế, chính là liên quan tới chuyện xảy ra vào hơn hai mươi năm trước, tại bờ biển Nam Trung Quốc, ở một làng chài tên là Tác Thạch Úc.”