Đăng vào: 12 tháng trước
Bên trong chiếu ngục đèn đuốc u ám, Thẩm Trạch Xuyên lạnh cả người, dần thở không ra hơi. Dây thừng kia trói chặt, y không ngừng động hai cổ tay, nhưng vô ích chẳng thấm vào đâu.
Túi đất chèn ép trước ngực, y như bị quăng vào đầm nước sâu, bên tai ong ong, hơi thở gấp loạn, không cách nào tiếp tục hít thở như bị chết chìm.
Thẩm Trạch Xuyên đảo mắt nhìn chằm chằm ánh nến bên ngoài thanh chắn.
Trong công đường mấy tên Cẩm y vệ đang uống rượu, khua nắm đấm hô quát, không ai rảnh quay đầu lại liếc nhìn Thẩm Trạch Xuyên. Thẩm Trạch Xuyên bị túi đất đóng ở trên chiếu cói thô ráp, cảm giác buồn nôn nghẹt thở như nước lũ vùi dập y rồi.
Đôi mắt đã hơi mờ, Thẩm Trạch Xuyên ngẩng cao đầu, cắn răng cử động chân. Hai chân bị gậy ngục đánh gần như tê dại, giờ khắc này nâng lên càng như không còn cảm giác. Y giẫm lên góc trái của ván giường gỗ, nơi đó đã bị sâu mọt cắn vữa rồi, ngày đầu tiên còn bị y ngồi lại càng nát thêm.
Hít thở càng lúc càng khó khăn.
Thẩm Trạch Xuyên đạp vào một góc kia, tận lực giẫm xuống, nhưng cái giẫm của y vô lực, thậm chí không giẫm được thành tiếng, ván giường vẫn không nhúc nhích. Mồ hôi lạnh chảy đầm đìa, sau lưng áo đã ướt thấu.
Y muốn sống.
Cổ họng Thẩm Trạch Xuyên điên cuồng lạc ra tiếng u u, y cắn rách đầu lưỡi, tiếp tục dùng chân đạp ván giường.
Thi thể không còn hình người của Kỷ Mộ trở thành roi ngựa rút ra dục vọng muốn sống của y, bên tai y tựa hồ vẫn còn quanh quẩn âm thanh của Kỷ Mộ.
Y phải sống!
Thẩm Trạch Xuyên quyết tâm va vào ván gỗ kia, cuối cùng nghe “rầm” một tiếng. Ván giường bị giẫm sụp mất nửa, thân thể nghiêng đi, túi đất lăn xuống. Y như vọt lên khỏi mặt nước, ngã xuống đất há miệng thở dốc.
Trên đất lạnh lẽo, chân bị thương của Thẩm Trạch Xuyên không thuận sai khiến, y lấy cùi chỏ chống thân, mồ hôi nhỏ giọt theo sống mũi. Trong ngục lạnh lẽo, y lại cảm thấy cả người như bị thiêu đốt, nóng khiến lục phủ ngũ tạng y đều cuộn trào, cuối cùng không nhịn được cúi đầu nôn khan.
Thẩm Vệ đáng chết.
Trung Bác có mười hai vạn binh mã, phân chia bố trí phòng vệ sáu châu. Sau khi sông Trà Thạch binh bại, kỵ binh Biên Sa xâm lấn tiền tuyến Đôn Châu. Chính như tên thẩm vấn nói, lúc đó vẫn còn cơ hội cứu vãn, Thẩm Vệ không chỉ có binh cường mã tráng, lương thảo phong phú, còn có thủ bị quân ba thành Đoan Châu có thể cung ứng điều phối. Nhưng hắn lại làm chuyện ngoài dự đoán của mọi người, bỏ rơi Đoan Châu, sợ sệt trốn về vương phủ Đôn Châu.
Lần chạy trốn này là khởi đầu cho Trung Bác thất thủ, ba thành Đoan Châu bị kỵ binh Biên Sa đồ thành, sĩ khí thủ bị quân sa sút, hoảng loạn rút về phía nam. Tất cả mọi người cho là Thẩm Vệ sẽ ở Đôn Châu liều chết một phen cùng mười hai bộ Biên Sa, thế nhưng hắn lại lần nữa vừa nghe đã chạy.
Quân Trung Bác liên tục bại lui, kỵ binh Biên Sa như thể rút hết cương đao sắc bén ra, cơ hồ đâm xuyên qua toàn bộ lãnh thổ sáu châu. Bọn chúng giục ngựa đến, trang phục gọn nhẹ ra trận, hoàn toàn dựa vào lấy chiến nuôi chiến để đuổi một mạch tới bên ngoài tám trăm dặm của Khuất Đô – vương thành Đại Chu.
Nếu như trong lúc rút lui Thẩm Vệ chịu thiêu hủy kho lương trong thành, tiến hành kế vườn không nhà trống, vậy thì kỵ binh Biên Sa tuyệt đối không có cách nào xâm nhập tới mức như vậy. Bởi vì bọn chúng không có quân nhu, hoàn toàn dựa vào lương thực trong thành đánh chiếm được để làm tiếp tế, một khi thiêu sạch lương thực trong thành thì kỵ binh Biên Sa dù dũng mãnh cũng phải đói bụng. Đói bụng thì không có cách nào kéo dài tác chiến, đến lúc đó thiết kỵ Ly Bắc sẽ vượt qua sông băng chặn đường lui của mười hai bộ Biên Sa, thủ bị quân của năm quận Khải Đông từ Thiên Phi Khuyết bóp chết đường chạy trốn của mười hai bộ Biên Sa, những loan đao này trở thành cua trong rọ, nhất định không sống qua được mùa đông.
Nhưng Thẩm Vệ không làm vậy.
Hắn không chỉ từ bỏ chống lại, mà còn để lại toàn bộ kho lương trong thành cho kỵ binh Biên Sa. Kỵ binh Biên Sa dựa vào lương thực Đại Chu, tàn sát hết người của thành Đại Chu. Ngựa của bọn chúng được Thẩm Vệ nuôi cho béo tốt cường tráng, xua đuổi bách tính cùng quân sĩ bị bắt tại sông Trà Thạch, một đêm chôn sống sạch sành sanh.
Thẩm Trạch Xuyên thoát về từ cõi chết.
Khuất Đô bây giờ muốn làm rõ món nợ này, toàn bộ điều lệnh của Thẩm Vệ khi còn sống đều vô cùng tắc trách sơ sài, hắn quả thực giống như đang trong ứng ngoài hợp cùng mười hai bộ Biên Sa. Song Thẩm Vệ sợ tội tự thiêu, một cây đuốc đốt rụi chính mình, hết thảy công văn liên quan đều bị tiêu hủy, chính Cẩm y vệ làm việc như sấm rền gió cuốn giờ khắc này cũng bó tay toàn tập.
Hoàng thượng muốn tra rõ ràng, bọn họ chỉ có thể không ngừng thẩm vấn Thẩm Trạch Xuyên – người có thể biết nội tình. Thế nhưng mẹ ruột Thẩm Trạch Xuyên chính là vũ kỹ Đoan Châu. Thẩm Vệ có nhiều con lắm, y chỉ là con thứ tám, tốt xấu gì cũng đều không tới phiên y, đã sớm bị vương phủ Đôn Châu xua đuổi tới Đoan Châu nuôi tự do, e rằng chính Thẩm Vệ cũng không nhớ được mình còn có một nhi tử như vậy.
Có người muốn giết y.
Đây cũng không phải bí mật, y tiến vào Khuất Đô chính là phải thay cha chịu tội. Y là dư nghiệt còn sót lại của Thẩm thị Trung Bác, nợ cha thì con trả, sau khi kết thúc thẩm vấn trong chiếu ngục, hoàng thượng nhất định sẽ dùng mạng y để tế ba vạn quân sĩ bị chôn sống trong trận chiến sông Trà Thạch Đôn Châu Trung Bác.
Thế nhưng không phải là ám sát như thế này.
Thẩm Trạch Xuyên dùng ngón tay cái lau khóe môi, nghiêng đầu phun máu trong miệng.
Nếu như Thẩm Vệ quả thật tư thông ngoại địch, có ý mưu phản, như vậy Thẩm Trạch Xuyên sớm muộn gì cũng phải chết, hà tất làm điều dư thừa là đến ám sát y – một đứa con vợ lẽ không tên không họ? Trong Khuất Đô vẫn còn người đang không an lòng về cuộc thẩm vấn, nếu như vậy, việc Thẩm Vệ binh bại ắt có điểm kỳ lạ.
Thẩm Trạch Xuyên không biết bất cứ chuyện gì.
Y ở Đoan Châu có sư phụ, huynh của y là con trai độc nhất của sư phụ – Kỷ Mộ. Đối với y mà nói, Thẩm Vệ chỉ là Kiến Hưng vương, không có quan hệ gì với mình. Thẩm Vệ đến tột cùng có tư thông với địch hay không, y căn bản không biết.
Thế nhưng y nhất định phải không chết.
Trên đất lạnh giá buốt xương, Thẩm Trạch Xuyên nằm sấp, bị đông cứng trái lại tỉnh táo hơn ban ngày. Y là trọng phạm khâm đề của Cẩm y vệ, tất cả bài phiếu truy nã, giấy truyền bắt giữ cho đến công văn đều là tự trình lên trên, trực tiếp mang y từ trong tay thế tử Tiêu Kí Minh của Ly Bắc tống vào chiếu ngục, thậm chí không cần trải qua hội thẩm tam ty.
(Khâm đề: việc vua giao cho)
Thế này đã biểu lộ rằng hoàng thượng tuyệt không buông tha, quyết tâm phải tra rõ. Ai có thể to gan như vậy, dưới tình hình này vẫn cứ bí quá hóa liều, muốn giết chết y trước khi hoàng thượng thẩm tra?
Gió lạnh rít gào trước cửa sổ, Thẩm Trạch Xuyên khẽ đảo mắt, nhìn chằm chằm vách tường trong bóng tối, không còn dám nhắm mắt.
Hôm sau trời mát mẻ, Thẩm Trạch Xuyên lại bị xách vào đại đường. Ngoài cửa gió tuyết lớn, tên thẩm vấn mấy ngày trước mặt lạnh giờ lại mỉm cười, hai tay dâng trà, cung cung kính kính chờ đợi bên ghế thái sư.
Người đang ngồi ở kia là lão nội hoạn mặt trắng không râu, đầu đội mũ lông nhung thiên hạc, thân mang bổ tử* hình hồ lô, chưa cởi áo khoác ngoài, đang ôm hoa mai kim ngọc linh lung ấm tay dưỡng thần. Lão nghe động tĩnh, liền mở mắt ra nhìn về phía Thẩm Trạch Xuyên.
*bổ tử: vải gắn trên phẩm phục triều quan
“Cha nuôi.” Kỷ Lôi phụng chỉ thẩm vấn mấy ngày nay khom lưng nói, “Đây là dư nghiệt của Kiến Hưng vương Thẩm Vệ.”
Phan Như Quý nhìn Thẩm Trạch Xuyên, hỏi: “Sao lại đánh thành dạng này?”
Trong lòng Kỷ Lôi biết Phan Như Quý không phải hỏi vì sao Thẩm Trạch Xuyên khắp người bẩn thối, mà là hỏi hắn vì sao đến nay vẫn chưa thẩm tra ra nguyên cớ.
Thái dương Kỷ Lôi mướt mồ hôi, hắn cũng không dám lau, chỉ duy trì khom lưng, nói: “Thằng nhãi ranh mông muội vô tri, nhặt về từ Trung Bác đã thần trí không rõ, cũng không biết bị kẻ nào xúi bẩy, mãi không chịu khai báo.”
“Trọng phạm khâm đề mà hoàng thượng cần.” Phan Như Quý chẳng nhận trà, “Một đứa trẻ mười lăm mười sáu tuổi vào chiếu ngục nổi tiếng tàn ác, để Kỷ đại nhân ngươi đích thân thẩm tra, không ngờ đến giờ vẫn không ra được một tấm lời khai.”
Kỷ Lôi dâng trà, cười khổ nói: “Thì bởi vì là trọng phạm khâm đề, nên không dám tự ý tra tấn. Lúc nó đến đã nhiễm phải phong hàn, nếu như không quản nặng nhẹ giết chết, vụ án Thẩm Vệ này sẽ thành án treo mất.”
Phan Như Quý quan sát Thẩm Trạch Xuyên một chốc, nói: “Chúng ta đều là chó dưới trướng chủ nhân, nếu hàm răng không sắc bén, giữ lại cũng vô dụng. Biết ngươi gặp khó xử, nhưng đây là việc nằm trong phận sự của ngươi. Trước mắt hoàng thượng muốn gặp người, đây là lượng thứ cho Cẩm y vệ các ngươi, sao ngươi có thể oán giận.”
Kỷ Lôi vội vàng bái nằm sấp xuống, nói: “Cha nuôi nói rất phải, con xin nhận dạy bảo.”
Phan Như Quý hừ mũi “Ừ” một tiếng, nói: “Mang nó đi tẩy rửa cho sạch sẽ. Bẩn thành cái dạng này sao có thể gặp vua.”
Thẩm Trạch Xuyên bị tạp dịch dẫn đi tẩy rửa, vết thương trên đùi được băng bó đơn giản, tròng áo bông sạch sẽ lên. Y bị người sắp xếp, thân thể đi đứng bất tiện, lúc bước lên xe ngựa cũng cần tốn nhiều sức lực.
Cuối cùng Phan Như Quý cũng nhận trà Kỷ Lôi dâng, nhìn chằm chằm lưng Thẩm Trạch Xuyên, hỏi: “Đây đúng là dư nghiệt Thẩm thị sao?”
Kỷ Lôi nói: “Đúng vậy. Nó là đứa duy nhất sống trong hố trời Trà Thạch, bị Tiêu thế tử Ly Bắc đích thân bắt, luôn bị giam trong ngục của thiết kỵ Ly Bắc, trên đường chưa từng để người khác chạm qua.”
Phan Như Quý nhấp trà nguội, một hồi lâu sau nói với vẻ ngoài cười nhưng trong không cười: “Tiêu thế tử là người thận trọng.”
Thẩm Trạch Xuyên xuống xe ngựa, bị Cẩm y vệ xách qua một đoạn đường dài. Tuyết rơi dày đặc thổi trên mặt, hoạn quan dẫn đường sải bước nhanh, không nói một câu thừa thãi.
Trước khi Phan Như Quý đến Minh Lý đường, tiểu thái giám đợi dưới hiên đã lanh lẹ tới đón, trước tiên cởi áo khoác ngoài cho Phan Như Quý, xong lại đỡ cái dù cho lão, sau đó tiếp nhận bao tay của Phan Như Quý. Bên trong đã truyền báo xong xuôi, Phan Như Quý khấu đầu bên cửa, nói: “Hoàng thượng, nô tỳ đưa người đến rồi.”
Tác giả có lời muốn nói: hoạn quan tự xưng là nô tỳ.
Qua nửa khắc, bên trong mới truyền ra tiếng trầm thấp: “Đưa vào.”
Thẩm Trạch Xuyên hơi ngưng trọng hô hấp, bị bắt tiến vào. Bên trong đốt hương nhưng không hề oi bức. Y nghe thấy vài tiếng ho khan đôi lúc, khóe mắt lướt qua hai bên nội đường.
Hàm Đức đế mang đạo bào phẩm xanh, tấm lưng gầy gò thấy được xương. Thân thể hắn suy nhược, ba năm kế vị luôn bệnh lớn bệnh nhỏ không dừng. Lúc này hắn ngồi trên ghế, một gương mặt vì khí huyết không đủ mà có vẻ đặc biệt nhã nhặn thanh tú.
“Kỷ Lôi thẩm vấn mấy ngày rồi,” Hàm Đức đế liếc nhìn Kỷ Lôi quỳ phía sau, “đã tra rõ chuyện chưa?”
Kỷ Lôi dập đầu, nói: “Hồi bẩm hoàng thượng, tên này nói chuyện bừa bãi trăm ngàn chỗ hở, chuyện mấy ngày nay khai có mâu thuẫn tầng tầng, đều không thể tin.”
Hàm Đức đế nói: “Trình hết việc nó khai lên.”
Kỷ Lôi lấy lời khai được chỉnh lý thoả đáng từ trong ngực ra, dùng hai tay đưa cho Phan Như Quý. Phan Như Quý bước nhanh lên phía trước, khom người dâng cho Hàm Đức đế.
Hàm Đức đế xem một lượt, đến đoạn hố trời Trà Thạch thì che miệng ho lên. Hắn không muốn Phan Như Quý lau giúp, tự mình lấy khăn tay thấm máu giữa môi, trầm giọng nói: “Ba vạn quân sĩ bỏ mạng trong hố trời, Thẩm Vệ không chết, nhân thần phẫn nộ!”
Thẩm Trạch Xuyên nhắm mắt lại, trong ngực đập dồn dập. Đúng như dự đoán, sau một khắc liền nghe thấy Hàm Đức đế nói.
“Ngẩng đầu lên!”
Thẩm Trạch Xuyên thở yếu ớt, bàn tay lạnh lẽo chống trên mặt đất. Y chậm rãi ngẩng đầu lên, ánh mắt dè dặt rơi trên ủng của Hàm Đức đế.
Hàm Đức đế nhìn y, hỏi: “Ngươi là con của Thẩm Vệ, là người duy nhất còn sống trong hố trời Trà Thạch. Ngươi có điều gì muốn khai báo?”
Thẩm Trạch Xuyên dần đỏ viền mắt, y hơi run thân, thút thít không nói.
Thần sắc Hàm Đức đế không đổi, hắn nói: “Trả lời trẫm!”
Thẩm Trạch Xuyên bỗng ngước mắt, lệ nóng trong mắt đã rớt xuống, chảy dài dọc theo gò má. Y vẻn vẹn chỉ ngẩng lên như thế trong nháy mắt, rồi lại ra sức dập trán trên đất, vai và cánh tay run rẩy, tiếng ngẹn ngào trong cổ họng bật ra.
“Hoàng thượng… hoàng thượng! Phụ thân thần thực tâm vì nước, sau khi binh bại thẹn với gia quốc, không còn mặt mũi gặp lại phụ lão Trung Bác, cho nên tự thiêu tạ tội!”
Hàm Đức đế trách mắng: “Ngươi nói năng vớ vẩn! Nếu hắn một lòng vì nước, vì sao liên tục lùi lại?”
Thẩm Trạch Xuyên khàn giọng thút thít: “Phụ thân thần đưa hết các con lên chiến trường, đại ca thần Thẩm Chu Tể trên quan đạo (đại lộ) Trà Thạch bị người Biên Sa kéo sau ngựa đày đọa tới chết! Nếu không một lòng trung thành, sao có thể làm đến nước này?”
Hàm Đức đế nói: “Sao ngươi dám nói đến trận Trà Thạch? Thẩm Chu Tể là lâm trận bỏ chạy, tội không thể tha.”
Thẩm Trạch Xuyên ngước đầu nhìn Hàm Đức đế, nước mắt rơi như mưa, khàn giọng nói: “Trận chiến sông Trà Thạch, máu chảy thành sông, đại ca thần mông muội vô năng, nhưng cũng giữ trụ được ba ngày. Trong vòng ba ngày này tình hình quân sự được lan truyền tới Khải Đông, Ly Bắc, nếu như không có ba ngày này…”
Cuối cùng nghẹn ngào không thể nói tiếp.
Hàm Đức đế xem lời khai trong tay, trong chính đường không nghe thấy gì, chỉ có tiếng Thẩm Trạch Xuyên đang khóc nức nở. Trong sự trầm mặc dài đằng đẵng này, đầu ngón tay Thẩm Trạch Xuyên đã bấu vào da thịt.
Hàm Đức đế bỗng thở dài một tiếng, nói: “Thẩm Vệ có từng tư thông với địch không?”
Thẩm Trạch Xuyên đáp như chặt đinh chém sắt: “Chưa từng.”
Nào ngờ Hàm Đức đế gác lời khai lại, đột nhiên lạnh giọng, nói: “Nhãi ranh giảo hoạt, ý đồ khi quân, không thể lưu ngươi được! Phan Như Quý, mang hắn xuống, đánh chết trước cửa Đoan Thành!”
“Nô tỳ tuân chỉ!” Phan Như Quý lập tức tuân lệnh, khom người lui ra.
Thẩm Trạch Xuyên như bị hắt một chậu nước lạnh, nhất thời cả người lạnh buốt. Y giãy dụa kịch liệt, lại bị Cẩm y vệ bịt kín miệng, lôi thật nhanh ra khỏi Minh Lý đường.