Chương 38: Hải hà phong cảnh nguyên vô dị bất chỉ nam phương bất khẳng hưu

Thiên Hạ Truyền Kỳ

Đăng vào: 12 tháng trước

.



“Biển sông phong cảnh nguyên như cũ,



Chẳng chỉ về nam chẳng chịu thôi.”



Lại nói, vị Hương chủ là nhân vật có địa vị cao nhất ở đây, khi bị ám toán thì vô cùng tức giận, vừa quát mắng vừa xuất thủ phản kích. Tả thủ của y nắm chặt thành quyền, oanh thẳng về hướng Đại Thánh Vương là kẻ vừa mới ám toán mình. Đồng thời, cũng không thấy y quay đầu lại, mà bảo kiếm trong tay phải cũng từ phía viên Hạm trưởng xuyên xéo qua, đâm thẳng về phía Chưởng Hỏa Vương, chiêu thức cực kỳ thần tốc và cũng âm độc vô cùng.



Chưởng Hỏa Vương không ngờ đối phương công kích Đại Thánh Vương mà còn đồng thời hướng mình xuất thủ, hơn nữa, chiêu kiếm đó lại thần tốc và quỷ dị như vậy. Lão ta nguyên bản vừa mới hạ thân xuống sàn thuyền, trọng tâm vẫn còn chưa vững, do vậy không kịp tránh khỏi, trúng kiếm vào bụng, huyết lưu rất nhiều. Chưởng Hỏa Vương khẽ hanh một tiếng, cũng không quay đầu lại mà vội nhảy ngay trở lại tiểu thuyền, rồi hối thủy thủ chèo nhanh về hạm đội của bọn họ. Lão ta thọ thương không nhẹ, cần phải khẩn cấp chữa trị ngay, nếu còn nấn ná ở lại đây e rằng hậu quả khó lường.



Trước biến cố đó, Đại Thánh Vương kinh hãi ngẩn người. Bất quá lúc này chỉ còn lại lão ta và Thường Thắng Vương trên địch hạm, tình hình có vẻ không hay. Cả hai đưa mắt nhìn nhau, đã có ý muốn rút lui.



- Ti bỉ, vô sỉ, hạ lưu.



Vị Hương chủ nộ khí xung thiên, lại lớn tiếng quát mắng, đồng thời bảo kiếm xuất thủ, phóng về phía Đại Thánh Vương, thế như thiểm điện, tốc độ cực nhanh, lực lượng cực cường. Đại Thánh Vương miễn cưỡng dịch thân né tránh, nhưng cũng không hoàn toàn tránh thoát được. Bảo kiếm xuyên qua vai phải lão ta, đâm ngập đến tận chuôi, đủ thấy vị Hương chủ đã xuất thủ hung mãnh đến thế nào.



Cùng lúc đó, Phó Hương chủ và Thường Thắng Vương cũng đã xông vào nhau quyết chiến. Song phương đâm qua chém lại, chiến đấu tưng bừng. Vị Hương chủ khẽ hừ một tiếng, cao giọng bảo :



- Chung lão đệ. Cẩn thận bị ám toán. Đừng đối chưởng với bọn chúng.



Viên Hạm trưởng thấy thần sắc của Hương chủ hơi bất bình thường, vội hỏi :



- Hương chủ có sao không ạ ?



Vị Hương chủ này tên là Chu Thanh, là Hương chủ của Nam lộ trong số bát lộ của Bạch Giao Bang, cai quản toàn bộ vùng Nam Hải và duyên hải Lưỡng Quảng, kể cả Quỳnh Châu và các đảo khác trong vùng, thân phận cao cả, địa vị hiển hách, là một trong số các trọng thần của Trường Xuân Cung. Nghe hỏi, Chu Hương chủ bực tức nói :



- Bọn cẩu tặc này. Uổng cho các ngươi là giang hồ trung nhân, Hỏa giáo cao thủ, khi đối chưởng mà còn giở trò ám toán. Có cao thủ ti bỉ vô sỉ như các ngươi sao ? Ta khinh.



Nhìn thấy huyết động trên tả quyền của Chu Hương chủ, mọi người lập tức minh bạch vì sao Chu Hương chủ lại phẫn nộ đến như vậy. Từ khi bọn Đại Thánh Vương nhảy lên chiến hạm này, Chu Hương chủ vừa đối quyền cùng Đại Thánh Vương, vừa thuận tay đâm Chưởng Hỏa Vương một kiếm, rồi sau đó Chưởng Hỏa Vương bỏ chạy, cho đến lúc Chu Hương chủ phóng bảo kiếm ra, trước sau toàn quá trình không đến 1 phút, vậy mà Chu Hương chủ đã trúng ám toán.



Trên ngón tay của Đại Thánh Vương có đeo một chiếc nhẫn, trên mặt nhẫn không ngờ còn giấu một mũi thiết thích ngắn. Khi Chu Hương chủ cùng lão ta đối quyền, khi quyền chưởng tương giao, bàn tay của Chu Hương chủ bị đâm một huyết động không lớn không nhỏ, đủ để máu tuôn lai láng. Với đẳng cấp như bọn Chu Hương chủ và Đại Thánh Vương, khi lưỡng đại cao thủ đối quyền đối chưởng, thật ra là tỷ thí nội lực. Chu Hương chủ hữu thủ xuất kiếm viện trợ viên Hạm trưởng đả thương Chưởng Hỏa Vương, sau khi phân thủ, tả quyền nghênh chiến hữu chưởng của Đại Thánh Vương, nguyên bản đã chịu thiệt thòi, huống hồ khi đối chưởng thì quyền đầu còn bị đâm một nhát, nội lực tự nhiên vô pháp chính thường sử xuất.



Vết thương trên tay trái của Chu Hương chủ lưu xuất ra vẫn là tiên huyết, chứng tỏ vết thương không trúng độc, trên thiết thích của Đại Thánh Vương không có tẩm độc. Mới xem qua thì đó là trong cái không may cũng còn có chút may mắn. Nhưng mọi người lại không nghĩ vậy. Đại Thánh Vương không tẩm độc trên thiết thích bởi vì lão ta căn bản không cần thiết phải làm vậy. Với võ công siêu phàm của lão, trên đời những người có thể đả bại lão không nhiều, giữa lúc cao thủ đối quyết, lão chỉ cần ám toán đối thủ một lần, nội kình bàng bạc tuôn ra, sấn hư nhi nhập, thì có thể nhất cử trọng thương hoặc kích sát đối thủ. Với dạng người thành danh lâu năm, địa vị cao cả như Đại Thánh Vương thế mà lại sử xuất kiểu thủ đoạn đó, cũng khó trách Chu Hương chủ sau khi bị ám toán tức thì nộ khí xung thiên. Nên biết rằng, dưới tình hình đó, nội kình của Đại Thánh Vương hầu như thông suốt vô trở công kích vào bên trong nội thể của Chu Hương chủ. Có trời mới biết lúc này xem ra Chu Hương chủ chỉ bị chút ngoại thương, thật sự bên trong nội thể có bị nội kình của Đại Thánh Vương làm cho thất linh bát lạc, nội thương trầm trọng hay không !



Vừa nghĩ đến hậu quả có thể xảy ra, viên Hạm trưởng sắc diện tái xanh, vội vàng bước đến dìu đỡ Chu Hương chủ, hốt hoảng hỏi :



- Hương chủ. Làm sao bây giờ ?



Chu Hương chủ thở dài nói :



- Tay trái của ta ... chỉ sợ ...



Ngừng lời một lát, nhìn thấy sắc diện viên Hạm trưởng không chút huyết sắc, Chu Hương chủ đột nhiên bật cười, nói :



- Mặc dù ta biến chiêu rất nhanh, nhưng nội thể vẫn còn thụ thương, xem chừng trong vòng bảy ngày tới đây không tiện vọng động nội lực cùng người khác chiến đấu rồi. Cân mạch trên tay trái của ta thụ thương không nhẹ, có thể trong vòng một tháng vô pháp vận lực. Hừ ! Cũng may công phu của ta đa số sử dụng hữu thủ, những trường hợp thông thường vẫn còn tham gia náo nhiệt được.



Viên Hạm trưởng vẫn chưa an tâm, hỏi :



- A ! Vậy còn ... còn gì nữa không ạ ?



Chu Hương chủ trừng mắt nhìn y, bảo :



- Còn gì nữa chứ ? Chẳng lẽ ngươi còn muốn ta tam trường lưỡng đoản ? Yên tâm đi. Ngày trước ta có tìm người xem số mạng, tướng ta không dễ dàng đoản mạng đâu. Ngươi còn không mau đi giải quyết lão quỷ già kia.



Viên Hạm trưởng vội vâng dạ, xách kiếm xông đến tấn công Đại Thánh Vương. Viên Hạm trưởng nguyên bản võ công không cao bằng Đại Thánh Vương. Nhưng lúc này đối phương đã thụ thương. Chu Hương chủ giận dữ xuất thủ, một kiếm đó không hề dễ tiếp. Đâm xuyên qua vai phải chỉ là chuyện nhỏ, quan trọng là nội thể cũng thụ thương, mà thương thế không hề nhẹ hơn Chu Hương chủ. Như thế thành ra Đại Thánh Vương bị viên Hạm trưởng bức bách không có cơ hội hoàn thủ, chiêu chiêu trí mạng, tình hình nguy ngập vô cùng.



Chu Hương chủ lại đưa mắt nhìn quanh, rồi bảo chúng thủ hạ :



- Bọn chúng đã là tiểu nhân vô sỉ, chúng ta bất tất khách khí. Tất cả cùng lên cho ta.



Chúng thủ hạ đồng thanh vâng dạ, cùng xông lên gia nhập chiến đấu. Chẳng bao lâu sau, kể cả Đại Thánh Vương và Thường Thắng Vương đều thất thủ bị bắt. Không giống như võ lâm lưỡng đạo, cao thủ của Trường Xuân Cung đều không phải hạng tầm thường.



Sau đó, Chu Hương chủ lại truyền lệnh cho toàn quân xông lên kết thúc chiến cục. Cả sáu đại ham đội thuộc Nam lộ đồng loạt xông lên tấn công hạm đội của Hỏa giáo. Nam lộ là một trong bát lộ của Bạch Giao Bang, phụ trách cai quản vùng Nam Hải, huy hạ có mười đại hạm đội. Từ khi nhận được tin báo về hạm đội của Hỏa giáo nhập xâm Trung Nguyên, Chu Hương chủ đã triệu tập sáu đại hạm đội ứng chiến. Đến lúc này, y mới cảm thấy mình đã sát kê dụng ngưu đao. Mỗi hạm đội đều có quy mô và trang bị tốt hơn hẳn đối phương, lại còn được trang bị thêm tân thức đại pháo “Hỏa Long Xuất Hải”, khi đối chiến chỉ có đan phương diện đồ sát. Chiến cục chỉ mất chưa đầy hai canh giờ là đã giải quyết xong. Hỏa giáo đồ chúng tuy ngoan cường kháng cự, nhưng quả bất địch chúng, nhanh chóng bị đồ sát gần hết. Thập nhị Bảo Thụ Vương thì ba bị giết, chín bị bắt. Ngay đến cả lão bà giáo chủ của Hỏa giáo cũng không thoát. Hỏa giáo hạm đội toàn quân tận diệt. Hơn nữa, sau trận chiến này, do cao thủ tận thất, Hỏa giáo ở Ba Tư tất sẽ gặp phải nguy cơ cực kỳ trầm trọng. Giờ đây, từ xứ Ba Tư cho đến xứ Syria đang là thiên hạ của Hồi giáo. Đế chế của Thiếp Mộc Nhi (Timur) đưa Hồi giáo đến khắp vùng Trung Á, ảnh hưởng đến tận miền bắc xứ Thiên Trúc. Thành ra đối với Hỏa giáo, tình hình này càng tuyết thượng gia sương.



Giải quyết xong trận chiến, hạm đội đang trên đường về cảng thì có khoái thuyền đến báo :




- Hồi bẩm Hương chủ. Có một hạm đội từ phương nam đang hướng đến vùng biển của chúng ta, hai ngày trước đã đi đến địa phận Quỳnh Châu. Quy mô của hạm đội đó gồm 18 trung hình chiến hạm và 40 tiểu hình chiến hạm.



Chiến hạm cỡ trung, cỡ nhỏ là tính theo kích cỡ của các chiến hạm thuộc Bạch Giao Bang. Thời Minh, kỹ thuật đóng thuyền đã rất phát triển, đóng những chiến hạm dài khoảng bảy, tám mươi trượng cũng không khó lắm. Nghe báo lại có thêm một hạm đội kéo đến, Chu Hương chủ cau mày nói :



- Lại có thêm hạm đội nữa ư ?



Gã thám tử cung kính nói :



- Hồi bẩm Hương chủ. Bọn thuộc hạ phát hiện trên hạm đội đó toàn là người Hồi.



Trong quan niệm của người Trung Nguyên thì người Hồi ở Tây Vực cũng chẳng có gì lợi hại. Do đó, Chu Hương chủ ung dung nói :



- Truyền các hạm đội quay đầu, tiến về phía nam ngăn địch.



Thế là cả sáu hạm đội, gần trăm chiến thuyền rầm rộ tiến về phía nam. Mỗi hạm đội có 4 chiếc đại hình chiến hạm, 10 trung hình chiến hạm và 1 tiểu hình chiến hạm dùng để liên lạc, do thám, truyền lệnh. Với quy mô như thế, với trang bị tinh lương, Chu Hương chủ hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi.



Sau mấy ngày hàng hành, thám báo phát hiện được hạm đội đối phương. Chu Hương chủ đột nhiên nảy ra ý tưởng tiên lễ hậu binh, liền phái sứ giả đến cảnh cáo đối phương, yêu cầu hạm đội đối phương phải rời khỏi vùng quản hạt của Nam lộ, tức địa bàn Nam Hải. Nơi này chỉ hoan nghênh thương thuyền các xứ đến làm ăn buôn bán, chứ không hề hoan nghênh chiến hạm.



Thật không ngoài dự đoán của Chu Hương chủ, sau khi nhận được lời cảnh cáo, đối phương không những kiên quyết cự tuyệt, mà còn đòi bọn Chu Hương chủ phải phối hợp bọn họ truy bắt khâm phạm, tức là đám người Hỏa giáo. Hạm đội đó cũng là hạm đội của Ba Tư, nhưng thuộc về hải quân triều đình Hãn quốc Sát Hợp Đài của Thiếp Mộc Nhi. Ở Ba Tư lúc này, Hồi giáo là quốc giáo, còn Hỏa giáo bị xem là tà giáo, bị cấm đoán. Hạm đội đó đã truy đuổi bọn người Hỏa giáo từ Ba Tư đến tận nơi đây. Xem ra Thiếp Mộc Nhi Hãn quyết tâm trừ diệt hoàn toàn Hỏa giáo.



Dù vậy, sứ mạng của bọn họ chẳng liên quan gì đến Bạch Giao Bang cả. Bọn họ muốn được giúp đỡ mà không những không dâng hậu lễ, lại còn dùng lời lẽ ngạo mạn, cũng có nghĩa là đã đủ lý do để tuyên bố chiến tranh. Chu Hương chủ liền truyền lệnh cho các hạm đội chuẩn bị tác chiến. Suy nghĩ một lúc, Chu Hương chủ lại bảo Phó Hương chủ :



- Chung lão đệ. Hãy đi kiểm tra xem Liệt Hỏa đạn còn được bao nhiêu ?



Phó Hương chủ phụng mạng đi kiểm tra, lát sau quay lại báo :



- Hương chủ. Còn được khoảng 700 viên.



Chu Hương chủ gật đầu nói :



- Hảo. Có thể tác chiến được rồi.



Khi ánh tịch dương đi xuống dưới biển, cả bầu trời rực hồng giống như đang bị hỏa hồng thiêu cháy. Đứng trên mạn thuyền dõi mắt nhìn ánh tịch dương, Chu Hương chủ hứng khởi tán thán :



- Thật là tráng quán a !



Trong lúc Chu Hương chủ tán thán thì cả sáu hạm đội đã chuẩn bị sẵn sàng, hiện tại chỉ còn chờ đợi giờ khắc thái dương trầm nhập đại hải. Dưới sự yểm hộ của dạ sắc, bọn họ sẽ đưa tiễn đối phương về chốn cửu tuyền.



Trong bóng tối, dưới ánh tinh quang, các chiến hạm của Nam lộ lần lần tiến sát đến vị trí của hạm đội đối phương. Khi song phương chỉ còn cách nhau hơn năm trăm trượng, Chu Hương chủ truyền lệnh :



- Phát động tiến công.



Lập tức, một hồi tù và rúc lên lanh lảnh, phá tan màn đêm yên tĩnh. Sau đó, các chiến hạm dừng lại, và dưới dạ sắc đột ngột có vô số ánh lưu tinh từ các chiến hạm của Nam lộ bay về phía hạm đội triều đình Ba Tư. Tất cả 20 chiếc đại hình chiến hạm, 50 chiếc trung hình chiến hạm đều không ngừng pháo kích về phía đối phương. Lần này bọn họ không dùng loại đạn pháo thông thường mà sử dụng đến Liệt Hỏa Đạn. Trong bầu trời hắc ám, vô số viên đạn vừa hừng hực bốc cháy vừa bay nhanh về phía các chiến hạm của người Ba Tư. Do khoảng cách song phương quá gần, nên độ chuẩn xác của pháo thủ khá cao. Có đến gần một nửa số Liệt Hỏa Đạn bắn trúng mục tiêu. Tiếp đó là cả một vùng hải vực biến thành biển lửa.



Người Ba Tư bị pháo kích bất ngờ giữa đêm tối, ai nấy vô cùng khủng hoảng. Nhất là khi chiến hạm bốc cháy, bọn họ vội vàng dùng nước dập lửa mà lại không sao dập tắt được. Ngọn lửa cháy cả trên mặt nước. Thậm chí khi nước lan đến đâu thì lửa cũng cháy lan đến đó. Nhiều kẻ kinh khủng kêu vang :



- Thần a !



- Quỷ hỏa, quỷ hỏa ...



...



Liệt Hỏa Đạn được làm từ thạch du (dầu thô), rất bắt lửa, và không thể nào dùng nước để dập tắt được. Chẳng mấy chốc, đại bộ phận các chiến hạm của người Ba Tư đều đã bốc lửa. Ngọn gió đêm tuy không mạnh, nhưng các chiến hạm thuận theo chiều gió mà pháo kích, khiến cho hỏa tá phong thế, hỏa thế càng lúc càng hung hãn hơn.



Viên chỉ huy hạm đội Ba Tư sắc mặt trắng bệch, nhìn các chiến hạm hoảng loạn chạy dạt tứ tung, và mặt biển bị ngọn lửa nhuộm hồng, chỉ còn cách duy nhất là ra lệnh cho các chiến hạm tùy nghi di tản. Để tránh thiệt hại nặng nề hơn, bọn họ phải phân tán ra, không thể tập trung lại được. Vừa chỉ huy chiến hạm đột vây, gã vừa tuyệt vọng kêu lên :



- Thánh Ala. Người lẽ nào đã bỏ mặc tử dân trung thành của Người rồi hay sao ?



Ở Ba Tư, Hồi giáo và Hỏa giáo luôn đối lập với nhau. Trong khi ngọn lửa lại là biểu tượng linh thiêng của Hỏa giáo. Lẽ nào nơi này quá xa xôi, Thánh Ala không thể chiếu cố đến được. Nhìn bốn bề lửa đỏ, ai nấy đều gần như tuyệt vọng.



Người Ba Tư điên cuồng chèo thuyền hy vọng có thể vượt ra ngoài biển lửa, hầu tránh xa chốn tử vong này. Tuy nhiên, sự hỗn loạn của bọn họ chỉ càng khiến cho sự đào vong tiến gần hơn đến chỗ tử vong. Cho đến khi chiến hạm của viên chỉ huy thoát ra được bên ngoài biển lửa đang không ngừng lan rộng ra, thì cả hạm đội Ba Tư chỉ còn lại chưa đến mười chiến hạm. Số còn lại nếu như chưa chìm, còn nổi được trên mặt nước thì cũng sắp sửa chìm xuống đáy biển lạnh lẽo rồi.



Thế nhưng, cơn ác mộng của người Ba Tư vẫn chưa kết thúc. Phía trước đường tháo chạy của bọn họ đột nhiên rực lên ánh lửa. Hỏa quang rực sáng cả một vùng trời nước. Một hạm đội đột ngột xuất hiện ở đó. Đội phục binh của Chu Hương chủ đến giờ mới xuất hiện, và cũng là đòn cuối cùng kết thúc số phận của hạm đội đối phương. Trên các chiến hạm, Liệt Hỏa Đạn đã được chuẩn bị sẵn sàng, chỉ còn chờ lệnh phát xạ.



Trên các chiến hạm của người Ba Tư lại gặp phải một phen khủng hoảng. Đến khi toàn bộ các chiến hạm của sáu hạm đội hội hợp, khép chặt vòng vây, thì người Ba Tư tuyệt vọng, quyết định đầu hàng.



Trận chiến kết thúc, Chu Hương chủ liền sai thủ hạ chèo các tiểu hình chiến hạm đi cứu vớt những người đang trôi nổi trên mặt biển. Trận chiến này Nam lộ chiến thắng lẫy lừng, tiêu diệt toàn bộ hạm đội của đối phương mà không thiệt hại một người nào. Chỉ có điều, chi phí đạn pháo không hề nhỏ. Thật là của đi thay người.



Trên Soái thuyền, Chu Hương chủ nhìn bản đồ hải vực treo trên vách, khẽ cau mày. Chiến tích lẫy lừng thật, nhưng số đạn pháo trên các chiến hạm đã gần cạn, còn Liệt Hỏa Đạn thì đã sạch không. Lúc nãy công kích sướng tay thật đấy, nhưng quân giới cũng tiêu hao rất nhiều. Giờ đây, nếu gặp phải đối thủ khác có quy mô tương tự, các hạm đội có lẽ bắt buộc phải trở về cảnh chiến đấu truyền thống : lên thuyền địch đánh giáp lá cà, và đó là điều mà Chu Hương chủ không muốn. Thủy thủ phải huấn luyện rất lâu mới trở nên lão luyện được, không thể tùy tiện hy sinh. Suy nghĩ giây lát, Chu Hương chủ quyết định cho các hạm đội quay về cảng.



Tin báo đưa về, mọi người chấn phấn. Ở Trường Xuân Cung, Lữ Gia ban chỉ gia thưởng cho những bang chúng lập được đại công ở Nam lộ. Công tích của Chu Hương chủ cũng được ghi vào sổ bộ, để sau này có dịp thăng thiên sẽ được ưu tiên hơn.



Sau đó, các tù binh được áp giải về Ngân Ba Đảo. Đối với bọn người Hỏa giáo, Lữ Gia chẳng thèm quan tâm đến, sai tống xuống thủy lao. Chỉ có đám người thuộc hạm đội triều đình Ba Tư thì được mang đi thẩm vấn. Lữ Gia đích thân thẩm vấn gã đầu lĩnh bọn chúng, rồi sai sứ giả mang thư và tín vật của gã ta đến triều đình Hán quốc Sát Hợp Đài, trách cứ Thiếp Mộc Nhi Hãn vô cớ xâm phạm Trung Nguyên. Đồng thời, Lữ Gia còn viết tấu chương trình lên Điện hạ hồi báo tình hình, mà thực chất là muốn biểu công.



Chẳng bao lâu sau, lại đến phiên Lữ Gia được gia thưởng.